Wednesday, May 17, 2006

Du Lich 30/4




 


Chuyến đi thuỷ điện Dami sau những chuẩn bị thật cẩn thận nhưng lại không thành làm tôi gần như rỗng khốc trong dịp nghỉ lễ. Chẳng biết mình phải làm gì, sẽ làm gì. Nhưng rồi tôi cùng tìm ra giải pháp. Sao lại không thay chuyến đi bất thành bằng một phi vụ du lịch khác nhỉ? Nghĩ là làm thôi!


* * *


 


Tỉnh P. đón tôi bằng cái nóng khủng khiếp. Đã gần 2h chiều. Và không gian đang bốc cháy. Con đường đất dường như vô tận nhóm lên một cảm giác lo lắng hoài nghi không biết khi nào mới đến nơi, không biết mình có nhầm lẫn gì không và rằng không biết có đúng con đường này sẽ dẫn đến ngôi làng ven biển ấy không? Thỉnh thoảng một cơn gió thoảng qua thổi tung lên 1 đám bụi đường mù mịt. Đã có lúc tôi nghĩ hẳn đấy phải là hơi thở của con rồng lửa khổng lồ nào đó.


Cuối cùng cũng đến nơi. Ì ạch leo đến đỉnh đồi thì biển hiện ra. Xanh ngăn ngắt. Nhưng nằm im lìm khép nép trước sự hùng mạnh của mặt trời. Và cả ngôi làng phô ra trước mắt. Những dãy nhà trắng trân mình chịu đựng trong ánh nắng thiêu đốt. Phố xá vắng tanh. Cửa sổ, cửa chính đóng im ỉm. Như một ngôi làng chết. Sau này tôi mới biết người dân ở đây có một giai thoại rằng : một hôm, vào độ giờ này, một người đi làm đồng về muộn vội vã đi ngang qua sân làng để về nhà nhưng đã hoá điên trước khi đến được bóng râm đầu tiên. Tất cả mọi người ở đây đều tin điều ấy.


Đây là một ngôi làng nhỏ bé và cũ kỹ. Những con đường lát đá chật hẹp chạy loanh quanh giữa những ngôi nhà đã quá già nua, ọp ẹp. Giữa làng là khoảnh sân chung. Nó là trái tim, là sinh khí của cả làng. Đó là nơi người dân tụ tập lại với nhau, là nơi của hội hè, đình đám, của những sự kiện quan trọng trong làng. Xung quanh đó là vài tiệm café nhỏ, mấy tiệm tạp hoá và một cửa hàng thuốc lá. Đàn ông ở đây nghiện thuốc lá. Bạn sẽ thấy điếu thuốc gần như chẳng bao giờ rời môi họ.


Buổi chiều xuống thật nhanh. Mặt trời đỏ ối chìm dần trong làn nước biển nhưng vẫn cố ném những tia nắng cuối ngày gay gắt vương vãi khắp nơi trên những mái nhà lô xô, trên những con đường và khắp mảnh sân chung. Cứ như là nó phải chì chiết, nguyền rủa ngôi làng rồi mới đi ngủ cho ngon được vậy. Mà đối với người ở đây thì đúng là làng của họ bị nguyền rủa thật. Nhưng đó là thời xa xưa. Ngồi nhấm nháp ly café tránh cái nóng như thiêu tôi lắng nghe bác chủ quán kể về quá khứ “dữ dội” của mảnh đất này. Thật khó mà hình dung được ngôi làng nhỏ bé hiền lành này đã từng là một nơi trộm đạo như ong. Mà bọn cướp có ở đâu xa, cũng chính là những người trong làng. Chúng cướp bóc, hãm hiếp làm cả làng tưởng như không sống nổi, phải bỏ xứ mà đi hết. Nhưng rồi cũng qua. Kể từ khi tên trùm của bọn cướp chết và hiến tất cả tài sản cho nhà thờ thì giống như là lời nguyền được giải vậy.


Nhà thờ làng. Ngôi nhà thờ nhỏ nằm bên rìa làng trông tồi tàn đến tội nghiệp. Nghe người dân ở đây bảo nó đã ở cùng họ cả trăm năm nay. Thế mà đã có lúc nhà thờ đóng cửa. Vì cha xứ giận các giáo dân của mình. Cả một tháng trời.


Bây giờ đã có chút gió biển. Lũ trẻ con rượt đuổi nhau. Những người đàn ông trở về sau một ngày lao động tụ tập bên mấy cái bàn con của quán café. Hiệu thuốc lá bỗng trở nên tấp nập lạ thường. Trên chiếc ghế mây bên cạnh cửa ra vào, một cụ bà ngồi lặng lẽ. Và đến là lạ, ở cái làng nhỏ bé này hầu như cái gì cũng có một lịch sử thật đặc biệt. Bạn có bất ngờ không khi biết cụ bà ấy chính là con gái của tên cướp năm nào. Sauk hi hắn chết, vợ con hắn rơi vào tình trạng tay trắng. Và các con hắn trong đó có bà đã chung tay xây nên cơ ngơi này. Mà cũng chính nơi này đã chứng kiến vụ hỏa hoạn lớn nhất tỉnh P. khi cả cửa hàng thuốc lá trở thành tro chỉ sau 1 đêm. Những tưởng gia đình họ đã phải ngã gục sau trận đó. Thế mà rồi từng chút, từng chút một, họ lại gầy dựng lại. Bây giờ thậm chí họ còn cho con gái đi học ngành Y trên thành phố.


 


 Chưa được hai ngày và một đêm dừng chân tại làng, hẳn là còn rất nhiều điều mà tôi chưa hiểu hết được. Nhưng tôi biết rằng, ánh mặt trời thiêu đốt và nỗ lực vươn lên của người dân ở đây sẽ là điều mà tôi còn phải suy ngẫm.


 


* * *


Tiếng người lao xao cùng với tiếng lũ heo ồn ào làm tôi tỉnh giấc. Thật chẳng muốn dậy chút nào. Ngoài trời còn tối thế kia, lạnh thế kia. Còn trong chăn thì ấm sực lên. Cứ muốn lăn quay ra ngủ cho quên trời đất. Nhưng sực nhớ mình chẳng có nhiều thời gian lưu lại đây nên đành choàng dậy.


Thế đấy, mới hôm qua tôi còn phơi mình trong cái nắng đổ lửa của miền biển mà sáng nay đã tỉnh dậy giữa sương sớm, nắng mai núi rừng Tây Bắc. Sực nhớ lại tối hôm qua mà buồn cười. Trời đã xế chiều mà tôi vẫn chưa đến được S. Đang loay hoay tìm đường thì gặp ngay 1 anh gùi 1 cái chảo lớn. Nghe mình hỏi đường thế là anh ta cứ tưởng mình là thầy giáo lên dạy cho bọn trẻ trên bản. Thế là cứ vừa đi vừa nói chuyện. Nhưng anh ta cứ nhấm nha nhấm nhẳng như đang dỗi. Đến khi trời xụp tối thì anh ta bảo đưa ba lô cho anh ta. Thế là mình lo. Ngộ nhỡ lão này cuỗm mất balô thì làm thế nào? Ở đây bốn bề rừng núi biết kêu ai? Mà nếu có chuyện gì tối nay biết ngủ ở đâu? Rồi làm sao mà về? Nghĩ thì nghĩ thế nhưng cuối cùng cũng phải đưa. Sau mới biết là bởi vì con đường phía trước mảnh như sợi chỉ. Một nương ngô ngay dưới chân. Dưới nữa là vực. Nếu vác theo cả cái balô to đùng ấy hẳn cả người lẫn đồ sẽ lăn lông lốc xuống sườn núi. Nghĩ thôi đã khiếp!


Lóc cóc mò ra giếng nước rửa mặt. Cả nhà trưởng bản đã dậy cả. Anh con trai làm cán bộ xã đã đi từ sớm. Chị vợ anh đang xay ngô. Cháu nhỏ con anh chị rủ tôi ra suối lùa ngỗng. Hỏi sao lại phải lùa thì mới biết hoá ra là áp dụng nếp sống mới, không nuôi gia súc, gia cầm dưới gầm nhà sàn. Thế là lũ ngỗng mất chuồng cứ đến tối lại ra suối ngủ và sáng hôm sau lại phải đi lùa về.


Mùa này là đã qua lễ hội lớn của người dân ở đây. Lễ hội Lồng Tồng mở sau Tết Nguyên đán. Hết bản này đến bản kia mở nên người ta cứ vừa tan hội này đã thấy có mặt ở hội kia. Nghe đâu những nam thanh niên chưa vợ ai cũng sẽ mang sáo theo để làm quen con gái người ta. Vào hội, mới sáng sớm thấy con gái túm tụm với nhau thì đến trưa là đã thấy các cô đứng riêng một góc cất tiếng hát véo von sau cái ô với một anh con trai trong tiếng sáo mê say. Có khi hai người còn kéo nhau vào bụi. Để thu âm. Anh con trai mang theo một cái đài nhỏ xíu thu tiếng hát của bạn gái vào đấy để tan hội về nghe cho đỡ nhớ. Rồi còn hội thi ném còn. Khoảng giữa trưa người ta sẽ dựng giữa bãi đất rộng một cây nêu cao và treo lên đấy cái mâm bọc giấy đỏ. Thế là còn bay vun vút. Anh nào cũng muốn chứng tỏ mình khéo nhất trước mặt các cô. Và khi giấy màu trên mâm bay lả tả là lúc ban tổ chức đã kiếm được người trao quà và ánh mắt các cô đã có người để mà đo riết lấy làm lắm anh thắng giải nóng ran cả má, cả gáy, cả sau lưng…


Mùa đông trên vùng cao hẳn là rất đẹp. Hãy nghe em gái vùng cao kể về những cánh đồng tam giác mạch. Cây tam giác mạch chịu rét giỏi. Mùa đông cỏ không mọc được nhưng nó vẫn lên xanh và nở hoa rất đẹp. Càng rét thì sắc hồng càng rực rỡ.  Cả bản như chìm trong rừng hoa ấy. Cuối mùa, hoa ngả sang màu hồng thẫm và lẫn vào mây mờ. Hãy nghe anh con trai kể về những đêm cá nổi. Cứ vào độ tháng Chạp ra Giêng là cá chép nổi lên tìm chỗ đẻ trứng. Ở bản người ta không ăn cá chép do quan niệm rằng nó là chúa tể nhưng cứ dịp này là mọi người ra sông vớt trứng cá để cuối năm sau là kịp có cá chép bằng bàn tay phục vụ cho người tỉnh, người huyện tiễn ông Táo về trời. Người vớt trứng chỉ việc chờ khi đêm xuống thì ra bờ sông ngồi chờ. Thỉnh thoảng phải đuổi mấy anh chuối, bống mất dạy len vào ăn trứng cá. Rồi đến sáng chỉ việc vớt những đám cỏ rác, rễ cây ven bờ lên là thấy đầy ứ những trứng là trứng. Trước đó một chút vào khoảng tháng 11 là mùa đi ong. Cây bạc hà mọc trên cao. Mùa hè là xanh um nhưng khi mùa đông về lá úa đi thì bắt đầu nở hoa tím ngắt. Nhà nào đi ong phải đón hướng gió tìm nơi nào bạc hà mọc nhiều để đặt tổ. Đến mùa ong bay đen trời, chỉ cần chuẩn bị thùng gỗ thông rồi mang mảnh vải quăng lên trời là bắt được vài chú khoẻ. Bỏ vào thùng nửa ngày rồi thả là tự khắc nó dẫn cả đàn bay về. Rồi mang thùng đặt nơi có nhiều bạc hà rồi sẽ có mật cho cả năm. Những ống mật đầu tiên của mùa ong chẳng ai đem bán. Nhà này mang cho nhà kia. Cho để mừng vui, để nhìn thẳng vào mắt nhau, để hẹn nhau ba ngày Tết cùng uống rượu mật ong nhắm thịt dê nướng….


Rồi thì còn nhiều nữa. Còn những tiếng đàn môi bên bờ rào đá. Còn những tiếng khèn lá nửa đêm len lỏi vào nhà từ nơi cối nước hay bờ suối khiến cô gái bần thần ra bên khung cửi với đống lanh chất đầy hai quẩy tấu. Còn cái cột đá treo người trên mỏm núi không cỏ cây nào mọc được của bọn lý trưởng quanh năm mây đen che phủ đứng nhìn xuống dòng sông như sợi chỉ ngoằn nghèo dưới đáy vực sâu. Còn những con suối mùa lũ hung hãn cuốn phăng phăng hết tất cả ở hai bên đường nó đi. Còn những gia đình phải bán cả mảnh đất bé xíu của mình để cho con gái lớn lấy chồng nếu không các em trai cũng không thể nào lấy vợ… Còn nữa, còn nhiều nhiều nữa. Tất cả như đã được thời gian nén chặt lại rồi phủ lên đó lớp sương mù quanh năm của những đỉnh núi. Khi nào tôi mới có cơ hội xuyên qua đám sương ấy lần bóc dỡ từng tí một những tinh thể long lanh giản dị mà vô cùng quý báu kia…


 


* * *


Nỗ lực trong vô vọng!


* * *


Mặt trời nhà Scorta, Laurent Gaudé – Prix Goncourt 2004 – NXB Hội Nhà Văn – 37.000


Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích Thuý – NXB Công An Nhân Dân – 45.000.