Thursday, January 26, 2006

60 - III




 


PHAN THIẾT – KHE GÀ - LAGI: ĐƯỜNG VEN BIỂN, CHỌC TRỜI KHUẤY NƯỚC TẮM BÙN…HỤT  VÀ LẠC ĐƯỜNG


 Nhóm bạn vừa đi chuyến xe đêm từ Saigon ra Phan Thiết đang nằm nghỉ la liệt. Chúng tôi quyết định nhập bọn với họ để cùng ra hải đăng Khe Gà. Sau khi dành thời gian cho chị em phụ nữ chuẩn bị thật kỹ càng, chúng tôi gồm 5 xe bắt đầu lên đường (nói thì nhanh vậy chứ ngồi nhìn chị em vốn tâm niệm đi biển phải diện quần áo thật ngắn và thật mát tỉ mỉ chấm từng chút kem chống nắng lên tất cả các phần da thịt có thể chịu tác động của sunlight mới hiểu như thế nào là “thời gian đứng yên lắng đọng”).


Để ra Hải đăng Khe Gà có hai con đường: một là, đường Đồi Sứ đi thẳng từ Phan Thiết và hai là đi vòng ra đường Quốc lộ rồi rẽ vào lại đường ven biển. Dù đã dự định đi đường Đồi Sứ nhưng với bản đồ do KDL Đồi Sứ cung cấp và khả năng tìm đường của tôi thì cuối cùng cả đoàn trôi dạt ra tới Quốc lộ và đi xa thêm gần 15km. Tuy nhiên, bù lại, bên cạnh con đường ven biển chúng tôi còn được biết thêm con đường nhựa đi xuyên qua những khu dân cư, những rừng cây mới trồng và những đồi cát trắng (trắng thật sự vì ở Phan Thiết các đồi cát có rất nhiếu màu). Và ở cuối con đường, biển đột ngột mở ra, bao la và xanh ngăn ngắt trong ánh nắng rực rỡ. Một chiếc cầu bắc ngang qua cửa con sông đang cạn nước trơ đáy dẫn ra biển. Lòng sông bây giờ chỉ còn lại những vệt cát trắng xám lấp lóa nước. Chúng tôi đứng trên mép đường cao khoảng 10m thi nhau chụp hình. Bên kia bờ, một căn nhà nhỏ xíu bên cạnh khu vườn xanh rì lá chuối lặng lẽ nhìn sang một lũ nhóc gần 25 tuổi đang nhí nhố và điệu đàng làm dáng trước ống kính.


Bắt đầu đi theo con đường ven biển đến Hải đăng mới thấy hết sức sống mới đang cuồn cuộn chảy nơi đây. Chưa được như đoạn đường đi Hòn Rơm vì ngoài 1 vài khu resort đã hoàn chỉnh và đón khách như Đồi Sứ, Vườn Đá,..thì hầu hết các khu còn lại vẫn đang  xây dựng dang dở với ngổn ngang gạch, ngói, gỗ, đá khắp nơi. Các khu resort ở đây có lẽ đã rút được nhiều bài học từ những khu trước đó nên kiến trúc và quy mô có vẻ hơn hẳn. Hầu hết đều nằm vắt ngang qua con đường đã trải nhựa thẳng tắp và đang được gia cố thêm để tránh sự xâm lấn của cát. Tiêu biểu như KDL Vườn Đá. Đi từ xa đã có thể nhìn thấy những ngôi nhà nghỉ xây dựng theo kiểu nhà sàn với mái cao vút tựa lưng vào vách đá nhìn ra biển. Bên kia đường, đối diện với khu nhà nghỉ là hàng loạt những công trình khác như hồ bơi, suối, hồ tắm bùn được xậy dựng hoà vào cảnh quan thiên nhiên xung quanh đã khiến nơi đây trở thành một địa điểm nổi tiếng bậc nhất của khu vực này. Tuy nhiên, với kiểu mạnh ai nấy làm và không có quy hoạch chung  như hiện nay, rất có thể sau khi định hình, con đường này sẽ là một tổng thể cực kỳ bát nháo khi thấp thoáng đây đó đã thấy nào là Tây, là Tàu, là Việt với đầy đủ gạch, ngói, gỗ, đá, kim loại, kiếng màu, inox,…


Hải đăng Khe Gà hiện ra từ xa nhỏ hơn “Trương Phi” của tôi rất nhiều.  Rõ ràng trí tưởng tượng của tôi đã đi quá xa khi khoác lên cho ngọn đèn biển ngoài kia đầy dẫy những uy vũ, những oai phong lẫm liệt, những sóng gào vách đá, núi dựng thành đồng. Khe Gà dưới nắng biển chói chang ban trưa trông hiền lành và lẻ loi đến tội nghiệp. Chúng tôi dừng xe và tìm đường vào ra Hải đăng thì được cho biết: vì lý do bảo vệ an toàn cho du khách, bộ đội biên phòng không cho phép qua đảo tham quan. Em bé đang ngồi chơi trước nhà nơi chúng tôi gởi nhờ xe tiết lộ:” Tại người ta không chịu đóng thuế cho mấy ổng nên mấy ổng cấm, mai mốt, mấy KDL xây xong thì họ sẽ được chở khách”. Chúng tôi hoàn toàn thất vọng vì công sức bỏ ra sáng giờ coi như đổ hết xuống biển bởi bây giờ chẳng biết đi đâu. Nhìn bộ mặt thê thảm của chúng tôi, em bé gợi ý cho chúng tôi ra chơi bờ đá, nơi đó có thể nhìn sang hải đăng. Thôi thì cũng đã lỡ đến đây, cả bọn lếch thếch kéo nhau ra biển. Biển ở làng chài thì lại không thể tắm được. Trên bờ biển, trẻ em nghịch cát trong khi những người phụ nữ làng chài túm tụm lại với nhau chờ thuyền cá về để thu mua và đem bán lại. Ngoài khơi, nhiều tàu đánh cá loại nhỏ đang neo bờ. Những chiếc tàu này chỉ đánh bắt gần bờ dùng thuyền thúng để chở cá, tôm đánh bắt được vào bán cho những người phụ nữ luôn túc trực sẵn sàng. Mỗi khi có một chiếc thuyền thúng nào bơi từ biển vào là họ lại nhao nhao cả lên. Một cái chợ chồm hổm nhanh như cắt hình thành để tiêu thụ mớ cá, tôm ít xịu. Nhìn họ tranh nhau lựa, trả giá, tôi chợt nhớ đến Oshin khi cô này đi bán cá dạo. Cũng phải chầu chực, rồi giành giật, rồi khư khư ôm rổ hàng của mình đi bán cắc củm từng đồng, từng cắc nuôi chồng, nuôi con. Nhưng được bao nhiêu người sẽ trở thành triệu phú vào cuối đời như Oshin? Hay những khuôn mặt xạm đen nắng gió này suốt đời sẽ mãi quanh quẩn lúc thì bên những chợ cá chồm hổm trên bãi biển, lúc thì bên tấm lưới đã thủng lỗ chỗ mà vẫn phải cố vá víu lại cho chồng, con có cái để ngày mai lao mình vào biển?


Biết chúng tôi muốn qua đảo, các em nhỏ  đang chơi trên bãi biển chỉ cho chúng tôi vào một căn nhà gần đó thuê người chở ra biển. Với vẻ mặt rất bất cần đời, một anh chàng vừa từ biển về ra giá 200.000 cho một chuyến đi-về 10 người. Thấy chúng tôi ngần ngừ, anh chàng nói tỉnh rụi: “ Mới về mệt thấy bà, không đi thì thôi chứ tui đi biển một chuyến 400,500 dễ ẹt”. Hic, điệu này thì thu nhập của bà con ở đây cao gấp mấy lần nhân viên tín dụng ở Ngân hàng hay Công ty Cho thuê tài chính còn gì. Cuối cùng thì “qua đảo phải luỵ thuyền thúng”, cả bọn hồi hộp trèo vào cái thúng chòng chành trước sóng trong khi anh chàng chèo thuyền liên tục hối chúng tôi nhanh chân kẻo biên phòng họ bắt lại. Nghe cứ như đang ở trong “đêm chôn dầu vượt biển”….


“Hải trình” ra đảo có 1 lần “sang ghe”. Chúng tôi phải đi thuyền thứng ra ghe, rồi mới đi bằng ghe ra đảo. Cảm giác hồi hộp ban đầu nhanh chóng biến mất thay vào đó là sự thích thú khi cả bọn nhận ra mình đang lênh đênh giữa một vùng trời biển bao la. Biển xanh, sóng êm, trời trong đã khiến các photographer và model phải làm việc liên tục. Nghiêng phải, nghiêng trái, cười mỉm, cười toe, choàng vai, bá cổ, ôm nhau, ….chẳng còn thấy đâu nữa vẻ lo lắng  khi lập cập chui vào thúng. Lên tới ghe, cảm thấy an toàn hơn trên thúng, tinh thần làm dáng chụp hình của bà con lại càng phát huy dù 10 đứa phải chen chúc nhau trong lòng chiếc ghe bé tí.


Hải đăng huyền thoại của tôi đang ở rất gần.. Ghe cập đảo, cả bọn hì hục leo lên bờ và ngay lập tức vỡ oà ra những tiếng xuýt xoa khi trước mắt chúng tôi là những tảng đá lớn tạo thành vô số những hình thù sinh động. Bãi đá ở đây và cả hòn đảo nhỏ này là phần vươn ra biển của một bãi đá trên bờ, bởi thế, trong những ngày nước cạn, người ta có thể lội ra đảo rất dễ dàng. Hải Ðăng Khe gà do một kỹ sư người Pháp tên là Chnavat thiết kế, xây dựng để hướng dẫn tàu thuyền qua lại, khởi công từ tháng 2 năm 1897, đến cuối năm 1898 mới  khánh thành. Ngay trên cửa vào hải đăng có một tấm đá hoa cương lớn khắc số 1899. Hải Ðăng Khe gà chính thức hoạt dộng năm 1900. Trong lịch sử hàng hải ở khu vực này, các thế hệ trước có rất nhiều thuyền buôn qua lại bị đắm do không xác định được toạ độ, vị trí và Mũi Khe gà (còn gọ là mũi Điện) được coi là một vị trí cực kỳ hiểm yếu của vùng biển từ Phan Rang đi Vũng Tàu. Do vị trí hiểm yếu của vùng biển này, và để đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng của quân đội Pháp cũng như tàu buôn của nước ngoài qua đây, người Pháp đã nghiên cứu cho xây dựng ngọn Hải Ðăng Khe gà. Trong thời gian xây dựng rất nhiều người chết do tai nạn, hiện nay ở đây vẫn còn nghĩa địa chôn những người chết vì công trình này.


Trên đảo ngọn Hải đăng được xây dựng tương đối đồ sộ, có lẽ đây là ngọn Hải đăng cao nhất trong nước, xây bằng đá hoa cương, hình bát giác. Ðá hoa cương xây ở Hải Ðăng Khe gà, chưa biết người Pháp đưa từ đâu đến vì trong khu vực không có loại đá này. Và không phải chỉ là những viên đá bình thường có 4 góc mà tất cả những khối đá hoa cương dùng xây Hải Ðăng đều đã được chạm, khắc thành từng ô, từng hình cạnh cụ thể, khớp với nhau. Nghĩa là gần như có sẵn một ngọn tháp bằng đá đã được làm sẵn, khi xây chỉ cần lắp đặt vào đúng thứ tự, góc cạnh từ dưới lên trên và chỉ cần đưa vữa vào là kết dính lại, không cần phải tô, trét sửa chữa. Tháp đèn xây bằng đá cao 35m, độ cao toàn bộ từ ngọn đền đến mặt biển 65m. Kích thước cạnh của tháp (chân tháp) 2,60m, chiều dày tường tháp từ chân tháp đến độ cao 6m là 1,6m, càng lên cao độ dày càng giảm từ 1,50m và mỏng nhất ở đỉnh tháp là 1m. Trên ngọn tháp có bóng đèn lớn 2000 W làm tín hiệu hướng dẫn tàu bè qua lại. Cả đèn và máy phát điện đều được đưa từ Pháp sang. Xung quang ngọn Hải đăng, người Pháp đã trồng rất nhiều sứ trắng mà đến nay vẫn còn nguyên, nở hoa trắng muốt.


Theo tài liệu, ngoài ngọn Hải Ðăng còn có một căn nhà lớn hình vuông mỗi cạnh 40m, dưới nhà là một hầm chứa nước sâu 3m, trước nhà có một giếng gọi là giếng Tiên. Tuy  nhiên chúng tôi tìm mãi mà chẳng thấy giếng đâu cả. Có lẽ thời thế thay đổi nên khi thấy cả một lũ quỷ đến thì Tiên đành rút lui trong trật tự chăng? Sau khi đóng 30.000 cái gọi là phí tham quan, chúng tôi được các anh bộ đội giao hẳn cho chìa khoá để lên hải đăng tham quan. 184 bậc cầu thang làm bằng  thép dẫn chúng tôi lên đến đỉnh tháp để rồi khi bước ra khỏi cánh cửa cũ kỹ, thì cả một không gian rộng lớn như nuốt chửng lấy cả bọn. Trên đỉnh hải đăng gió lồng lộng thổi. Tầm nhìn được mở ra rất rộng. Bên kia là bãi biển Thuận Quý trải dài mượt mà. Bên này là biển mênh mông vô cùng. Bầu trời cao rộng bao la. Cả hòn đảo trở nên nhỏ xíu. Theo một chiếc thang sắt đứng chúng tôi leo lên tầng cao nhất của hải đăng. Cảm giác cực kỳ phấn khích khi lòng bàn chân bạn chạm vào các thanh ngang lạnh ngắt của thang trong cảm nhận rất rõ ràng từng cơn gió thổi sàn sạt qua người mình. Tự nhiên thấy ê ê trong lòng. Nhưng cảm giác đó cũng chẳng thấm vào đâu so với khi bạn thật sự đặt chân lên tầng cao nhất. Chỉ lên cao thêm khoảng 2m mà gió trên đây đột ngột trở nên dữ dội bất ngờ. Thôi thì tha hồ tóc bay, áo bay, thậm chí hai ống quần cũng thi nhau phần phật, phần phật. Thân hình vốn đã mảnh như lá lúa của tôi cứ như sắp bị thổi vèo ra xa và rơi thẳng xuống mặt biển xanh ngăn ngắt dưới kia. Gió biển mang theo muối làm cho bàn tay bám vào balcon cứ dấp dính, trơn tuột. Ôi Trương Phi của ấu thơ tôi! Chọc trời khuấy nước! Tưởng như chỉ một tiếng gầm mà sóng phải lặng, gió phải ngừng, chuyển nguy thành an cho cả một dải đất mong manh đằng sau lưng nó!


Cho đến khi chiếc ghe nổ máy rời khỏi đảo, tôi đã kịp nuôi thêm mơ ước mới: buổi bình minh lặng lẽ và ấm áp trên đỉnh ngọn Hải đăng đầy gió….


Lúc này thì cơn đói bằt đầu hành hạ mọi người. Theo kế hoạch chúng tôi sẽ ăn trưa và  tắm bùn tại Vườn Đá resort  nhưng tất cả những gì chúng tôi nhận được là vẻ kiêu hãnh không dấu diếm của nhân viên nơi đây khi họ từ chối cung cấp dịch vụ với lý do là chúng tôi không đặt trước. Theo lời của nhân viên nơi đây, để có thể sử dụng dịch vụ của họ, chúng tôi cần đặt trước…………1 tháng. Cả bọn ngậm ngùi ra xe trong cơn đói dày vò và  niềm tiếc nuối vô hạn (?)  vì đã trót nhìn thấy hồ bơi xanh ngắt của khu resort cùng những con đường xinh xắn lẩn khuất dưới đám cây là xanh um. Lại quăng xác ra con đường đấy nắng mà trong cơn đói đã bớt đẹp đi ít nhiều, cuối cùng, chúng tôi cũng tìm được chỗ ăn nhưng kế hoạch tắm bùn đã tan tành mây khói!


Sau bữa ăn, chúng tôi chia tay với nhóm bạn và tiếp tục lên đường. Con đường từ Hải đăng về tới Bà Rịa-Vũng Tàu dài khoảng 90km rất tốt. Hai bên đường dân cư thưa thớt nằm lẫn trong các đồi cát, ruộng muối. Thỉnh thoảng lại có mấy vuông ruộng lúa xanh nhức mắt. Dọc con đường này có hai địa điểm tham quan đáng chú ý nhưng vì thời gian không cho phép nên chúng tôi phải bỏ qua đó là: nhà máy sản xuất titan từ cát biển và Hòn Bà. Nếu đi vào nhà máy titan thì sau đó, tuỳ theo điều kiện, nếu nước biển rút ra xa thì có thể chạy xe gắn máy dọc theo bờ biển xuống tận Lagi - thị trấn cách hải đăng khoảng 40km. Còn Hòn Bà là một ngọn núi trẻ nhô lên giữa biển, vào đầu thế kỷ 17, người Chăm đã xây dựng tại nơi đây một ngôi đền thờ nữ thần Thiên Y Ana. Trong kháng chiến chống Pháp, ngườI Pháp đã cấm nhân dân ra đảo dẫn đến hoang phế, đổ nát và bức tượng thần tạc bằng đá nguyên đã bị đánh cắp. Mãi đến gần đây, ngư dân Hàm Tân mới xây dựng lại ngôi đền và tiến hàng thờ tự như cũ.


Khi chúng tôi đến địa phận Bà Rịa là đã xế chiều. Xe qua một ngã ba rất gợi nhớ đến ngã ba ở chân đèo Dran, một thì rẽ vào KDL sinh thái Bình Châu, một đi tiếp vào Bà Rịa. Hai bên đường là rừng cây um tùm phả hơi lạnh của buổi chiều. Rồi thì các cụm dân cư cũng dần hiện ra. Những căn nhà nhỏ bé lẫn trong vườn cây. Những đứa trẻ chơi đùa trước sân. Những bà mẹ với chút thảnh thơi cuối ngày, bắc chiếc ghế nhỏ ra hiên trước trao đổi với nhau dăm ba câu chuyện vãn. Giản dị mà đẹp lạ lung, cái đẹp của một ngày đã cũ…


Hai đứa theo lời hướng dẫn của ngườI dân cứ chạy mãi mà vẫn chưa thấy KDL Lộc An.  Sóng điện thoại khi có khi không. Đường vắng ngắt, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy ngang qua thật nhanh. Và rồi thì bóng tối nuốt chửng chúng tôi nhanh như chớp. Không liên lạc được vớI KDL mà cứ mỗi khi chúng tôi cố gắng dừng xe của những người đi đường lại hỏi thì lại nhận được những hướng dẫn hoàn toàn khác nhau. Bắt đầu lo và bối rối. Quay ra đường cái hay chạy tiếp? Cuối cùng thì quyết định liều, tiếp tục con đường mình đang đi. Những con thiêu thân thấy ánh sáng đèn cứ bay ào ào vào chúng tôi. Hai đứa cắm cúi chạy trong bóng tối. Rồi đột nhiên qua một khúc quanh, chúng tôi mừng rỡ  khi thấy từ xa có ánh sáng đèn điện. Và KDL Lộc An đón chúng tôi thật nồng nhiệt với nụ cười và giọng nói thân thiện của cô tiếp tân cùng tiếng piano văng vẳng…Thở phào như về đến nhà!


 


 


 


 

Tuesday, January 10, 2006

60 - II





PHAN THIẾT- THANH LONG, THÁP, CHÙA, HẢI SẢN VÀ MÓN ĐẶC SẢN CHẲNG BIẾT NGON Ở CHỖ NÀO..

Rời KDL Núi Takou, chúng tôi tiếp tục chạy về Phan Thiết.Hai bên đường là những vườn thanh long bạt ngàn. Có những khu vườn vừa thu hoạch chỉ còn trơ lại những cành thanh long, có những khu vườn đang ra hoa, kết quả…Thanh long bây giờ là một thứ trái cây xuất khẩu được người nước ngoài ưa chuộng nhưng cá nhân tôi không thể ưa nổi loại trái cây này. Tuy vậy, đứng trước những vườn thanh long đang trổ hoa lộng lẫy hay kết những quả hồng tươi lấp ló trong lá thì thật không thể không thừa nhận vẻ đẹp của chúng. Đó cũng là lý do chỉ 30km từ Takou đến Phan Thiết mà tôi đi thật lâu và tiêu tốn cả mấy MB của thẻ nhớ cho thanh long.


Sau khi check in ở Phan Thiết chúng tôi đi tìm chỗ ăn trưa. Lựa chọn đầu tiên là bánh hỏi lòng heo ở Phú Long cách Phan Thiết khoảng 6km về phía Bắc. Tuy nhiên, đây lại là món ăn sáng của ngườI dân ở đây nên tới thời điểm đó chẳng còn quán nào có bán.Đang ở gần Tháp Chăm Pôshanư nên tôi quyết định sẽ đến đó luôn hy vọng sẽ có quán ăn phù hợp ở dọc đường. Thê thảm là suốt dọc đường ven biển đó toàn resort, thế là chúng tôi đành ôm bụng đói leo lên Tháp Chăm.


Nhóm đền tháp Chăm Pôshanư tọa lạc trên đồi Bà Nài thuộc xã Phú Hải về phía Đông  Bắc cách thành phố Phan Thiết chứng 7km được người Chăm xây dựng từ những cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hoà Lai - một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Vương quốc Chămpa  và còn tương đối nguyên vẹn. Nhóm tháp gồm có 3 tháp : Tháp chính A hơi chếch về phía Nam, hai tháp phụ là B hơi nhếch về phiá Bắc và C chếch về  hướng Đông cạnh tháp A thờ thần Siva biểu hiện bằng bệ thờ Linga-Yôni bằng đá hiện còn lưu giữ tại  tháp chính.Đến thế kỷ XV người Chăm tiếp tục xây dựng một số đền thờ dạng kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Pôshanư, tương truyền là con vua ParaChanh được nhân dân yêu quý về tài đức và phép ứng xử của Bà đối với người Chăm đương thời. Những cuộc khai quật khảo cổ học từ 1992-1995 đã phát hiện nhiền nền móng của những ngôi đền bị sụp đổ và bị vùi lấp hàng trăm năm nay, cùng với gạch ngói và một số hiện vật trong lòng các đền tháp có niên đại từ thế kỷ XV. Từ đây tháp có tên gọi là Pôshanư. Pôshanư là nhòm đền tháp Chăm có vai trò quan trọng trong số các di tích kiến trúc Chăm ở Bình Thuận, từ hình dạng kiến trúc đến kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật trên thân tháp, các vòm cuốn, các cửa chính, cửa giả, trong lòng và lên đến đỉnh tháp. Riêng kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật còn lại ở thân Tháp đủ gợi lên yếu tố thẩm mỹ khá riêng biệt của phong cách Hoà Lai. Tháp chính A từ trong lòng tháp lên đến Đỉnh 15 m, cạnh đáy mỗi bề gần 20m, một cửa chính dài, hướng về phía đông mà theo truyền thuyết Chăm là nơi cư ngụ của thần linh, nơi sự sống sinh sôi. Có 3 cửa giá ở những hướng Bắc, Tây, Nam. Trên vòm cuốn ở hướng Tây hiện còn những dãy chạm khắc dày đặc với những bông hoa và hình tượng kỳ lạ. Tháp có 4 tầng càng lên cao càng thu nhỏ lại và bớt đi những yếu tố kiến trúc của tầng dưới. Trên đỉnh tháp có 4 cửa sổ hình tam giác hướng về 4 phía, bên ngoài xây bít kín, dưới mỗi cửa sổ gạch có 4 lỗ lớn để thông gió ra ngoài. Tháp B nằm riêng nhích về hướng Bắc cao khoảng 12m, về cơ bản hình dáng kiến trúc giống tháp A nhưng đơn giản hơn. Trước đây trong tháp có thờ con bò thần Namdin nhưng sau đó không thấy nữa . Năm 1995 lúc khai quật dưới lòng đất đã tìm thấy 1 bàn chân và 1 tai bò thần bằng đá. Tháp C hiện chỉ còn lại với 1 chiều cao hơn 4m, duy nhất 1 cửa trổ về hướng Đông những kiến trúc và trang trí nghệ thuật bên ngoài đã bị thời gian bào mòn chỉ còn lại một số đường nét gốc. So với những tháp Chăm khác, đến nay di tích này hàng năm vẫn có đông đảo người Chăm từ các vùng lân cận đến làm lễ cầu mưa và những nghi lễ khác liên quan đến phong tục tập quán của họ,. Một điều khá lý thú nữa là đối với ngư dân những vùng lân cận trước khi đi biển cũng đến đây cầu xin cho những chuyến đi biển được bình yên. Không phải là lần đầu đến đây, cũng chắng có “mưa bay tháp cổ” nhưng tôi vẫn cứ “muốn nghiêng ngả”. Từng viên gạch, cây cột, cửa chính, cửa giả đều khiến tôi thích thú. Thế là có thêm một màn múa Chăm “đáng nhớ” làm tiêu tốn mất tương đối nhiều thời gian và phim ảnh!


Cách tháp chừng 50m là Lâu Ông Hoàng nổi tiếng gắn với tên tuổi Hàn Mặc Tử. Toà Biệt thự của ông hoàng Pháp De Montpensier rộng 536m2 với 13 phòng được xây dựng vào năm 1911 hiện đại và tiện nghi vào bậc nhất ở Phan Thiết lúc bấy giờ nay chỉ còn trơ trọi một lô cốt do Pháp xây dựng để kiểm soát Phan Thiết và hệ thống hầm chứa nước mưa để dùng. So với di tích tháp Chăm ngay gần đó, dù tuổi đời ngắn hơn nhưng nó còn thê thảm hơn rất nhiều. Nhưng có lẽ chính vì điều đó cùng với những huyền thoại liên quan đến Hàn Mặc Tử đã luôn khiến du khách phải dừng chân tại đây để rồi ngậm ngùi trước sự tàn phá khủng khiếp của thời gian, của con người…


Điểm tham quan này là địa điểm xa nhất trong chuyến đi của chúng tôi. Rời khu vực Tháp Chăm và Lầu Ông Hoàng chúng tôi theo con đường dọc bờ biển để về lại nội thị Phan Thiết. Không hổ danh là thành phố của các resort, dọc theo con đường hầu như toàn là các resort chen vai thích cách với nhau. Nếu tiếp tục đi theo con đường này để ra Hòn Rơm, Mũi Né thì du khách còn choáng ngợp hơn nữa trước sự thống trị của các resort nơi đây. Resort bên bờ biển Phan Thiết đã mang lại cho khu vực này một hình ảnh mới nhưng sự phát triển ồ ạt của chúng mà không có một quy hoạch tổng thể cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến cảnh quan chung.


Hai điểm đến tiếp theo của chúng tôi (mà thật ra chỉ là của tôi vi thằng bạn đi cùng có vẻ chẳng hào hứng mấy) là hai ngôi chùa nổi tiếng của Phan Thiết: chùa Ông và chùa Phật Quang. Sau khi ních căng bụng tô mì Quảng ngọt như chè ở chợ trung tâm (thật lạ lùng bởi cũng là một xứ nước mắm nhưng khẩu vị của người dân Phan Thiết rất ngọt), chúng tôi vào thăm chùa Ông cách đó chỉ một ngã tư. Chùa ông là ngôi chùa cổ nhất và có quy mô lớn nhất của người Hoa ở Bình Thuận, theo tài liệu trong thần phả của chùa và niên đại khắc ghi bằng dòng chữ Hán trên thanh xà cồ nóc chính diện “Thiên kiến Canh Dần niên trọng đông kiết tạo” ( chùa được thiết lập vào tháng 11 năm Canh Dần 1770)


Tổng thể kiến trúc ở đây từ ngày khởi tạo là một ngôi miếu lớn của người Hoa xây dựng để thờ Quan Công (Quan Thánh đế quân). Ngay trước cổng vào chùa hiện nay còn tấm biển ghi “Quan Thánh miếu”. Nằm trên một diện tích khá lớn, chùa có lối kiến trúc và trang trí nghệ thuật đặc trưng của người Hoa, các dãy nhà nối tiếp nhau tạo nên hình chữ Kim. Hệ thống cột, vĩ kèo chạm khắc rất công phu, sắc nét. Tất cả những cột chính đều có treo câu đối chạm khắc v à sơn son thếp vàng lộng lẫy. Nổi lên ở các gian thờ là những bức tranh chạm gỗ, gắn tường mà nội dung miêu tả các điển tích xưa của người Hoa, có niên đại ở thế k ỷ XVIII. Nhiều bức hoành lớn được chuyển t ừ Trung Hoa qua ở thế k ỷ XIX. Gần 100 bức hoành và liễn đối với các loại có nhiều kích thước khác nhau treo đầy chính điện và nhà thờ tiền hiền. Đặc biệt là những bức hoành phi đại tự sắc nét với đủ màu sắc. Tượng Quan Công to lớn bằng gỗ đặt trang trọng ở gian thờ chính điện cùng hàng chục những pho tượng cổ khác. Một điều kỳ lạ là ở gian bên phải của chùa là gian thờ Thiên Hậu và các bà mụ. Dọc theo hai bên chính điện của gian này là tượng của các bà mụ trông rất xưa và đẹp.


Chùa Ông hiện nay còn lưu  giữ nhiều chiếc chuông cổ có giá trị về lịch sử và nghệ thuật, đúc tại Quảng Đông, Trung Hoa và chuyển sang từ triều đại Nhà Thanh. Kiểu cách đúc và vật liệu giống Đại hồng chung của người Việt nhưng trang trí phức tạp hơn và rườm rà hơn trên thân chuông. Người dân Phan Thiết có một tục lệ là chui đầu vào chuông để một cụ già giữ chùa điểm 12 tiếng chuông. Theo lời cụ, làm như thế là để ông, bà nâng giữ cái đầu cho mình, giúp mình được tai qua nạn khỏi trong suốt 12 tháng của năm. Tôi cũng xin phép cụ để được chui vào chuông và cầu mong Đức Quan Thánh Đế sẽ nâng giữ giùm tôi cái đầu, cho nó được bình yên…. Còn muốn hỏi thăm cụ thêm nhiều nữa nhưng hàng người chờ được điểm chuông ngày càng dài nên tôi đành cám ơn cụ và ra về.


Chúng tôi tiếp tục đến chùa Phật Quang được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, tọa lạc ở phường Hưng Long, thành phố Phan Thiết. Vị trí của ngôi chùa vào thời điểm xây dựng dân cư thưa thớt, bao quanh là những đồi cát mênh mông chạy dài ra biển nên trong dân gian cũng có tên gọi là Chùa Cát. Và thật ra người dân Phan Thiết cũng chủ yếu biết đến nó với tên gọi là Chùa Cát. Bằng chứng là khi chúng tôi hỏi đường đến chùa Phật Quang thì hầu như không ai biết, thậm chí có người còn tận tình dẫn chúng tôi đến chùa Phật……Học, nhưng hỏi chùa Cát thì ai cũng biết ngay.


Điểm đặc biệt quan trọng trong ngôi chùa cổ này là các di sản văn hoá có giá trị. Đó là chiếc Đại hồng chung lớn đúc bằng đồng chạm khắc đẹp, tinh tế và 4 mặt chuông khắc địa danh, lịch sử chùa cũng như niên đại, chuông được đúc vào  năm Canh Ngọ 1750 dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Một số hiện vật khác là những bản khắc gỗ tạo nên bộ kinh pháp hoa với 118 bản. Đa phần trong 118 bản khắc bằng gỗ thị khắc cả 2 mặt bằng chữ Hán sắc nét bao gồm 60 vạn lời, trong đó có 7 bản khắc hoạ hình ảnh Đức Phật thuyết pháp. Bộ kinh Pháp Hoa hoàn thành vào năm 1734 mà bản cuối cùng trong 118 bản khắc “ Long Đức Tam niên tuế thứ giáp dần tứ nguyệt sơ nhất nhật” , tức là hoàn thành vào ngày mùng một tháng tư  năm Long Đức thứ ba ( giáp dần 1734). Long Đức là hiệu của vua Lê Thuần Tông đời hậu Lê lên ngôi 1732. Bộ kinh do hai khất sĩ Ninh Dung và khất sĩ Thiết Huệ hiệu là Khánh tài chủ trương xin phép khắc. Cũng trong bản khắc cuối cùng của bộ kinh ghi công của 6 người đứng ra quyên góp và cúng tiền , người đứng ra in, nhiều người cúng gạo cơm và ghi cả công của 2 vị thiền sư cùng 12 Phật tử khắc trong thời gian 28 năm mới hoàn thành bộ kinh này. Mới gần đây vào năm 1987 người ta mới tìm được bộ kinh trong một căn hầm ở chùa. Và cũng chính nhờ bộ kinh này mà Chùa Cát đã ghi tên mình vào 10 k ỷ lục của Phật Giáo Việt Nam là bộ kinh Pháp Hoa khắc gỗ đầy đủ nhất và xưa nh ất. Với bề dày lịch sử và gía trị như thế, thật đáng tiếc là chúng tôi không thể có cơ hội được nhìn tận mắt bộ kinh này. Có đâu một bảo vật như thế mà lại để cho khách thập phương tự do chiêm ngưỡng? Chắc phải có ác tăng Tây Tạng qua đòi mượn thì  mới xuất đầu lộ diện để rồi bôn ba chốn giang hồ quá!


Niềm hy vọng còn lại của tôi là chiếc Đại Hồng Chung và cảnh quan của chùa thì hỡi ôi, chiếc Đại Hồng Chung tinh xảo ngày nào nay đã được đưa vào Chánh điện đứng cạnh lùng nhùng những dây điện nhường vị trí của nó trên lầu chuông cho một chiếc khác to hơn, mới hơn và…bình thường hơn do Phật tử phụng cúng để phù hợp với cảnh quan của chùa vừa được tu sửa vào năm 2002 rất mới với sàn lát gạch granite và một vườn tượng thể hiện nhiều tích của nhà Phật rực rỡ nhưng thiếu hẳn sự tinh xảo cần thiết.


Chúng tôi rời chùa Cát và bắt đầu tấn công Phan Thiết bằng một con đường khác – ăn và uống. Ghé vào một hàng ăn nhỏ ở vỉa hè nơi có rất đông các em học sinh và người dân, chúng tôi được Phan Thiết mời chào bằng món gỏi ốc. Ốc voi luộc chín được xắt mỏng trộn cùng với đu đủ, rau răm, hành tây và chút hành phi trên mặt ăn với nước mắm chua ngọt cùng bánh đa vừng vàng rộm. Rồi thì nghêu luộc ngọt lừ. Ốc gạo ăn với nước mắm gừng thơm ngát. Sò lông nướng mỡ hành chấm muối tiêu chanh. Dùng xong có thể gọi thêm ly sinh tố ở hàng bên cạnh  mà tất cả chỉ mất khoảng 20.000 cho 1 người. Các cô phục vụ chạy luôn chân mang thức ăn cho khách, đóng gói về, dọn bàn.. và vẫn tươi cười dọn thêm 1 phần gỏi ốc làm mẫu khi tôi ngỏ ý muốn chụp một tấm ảnh. Hy vọng đó thật sự là cung cách phục vụ của họ chứ không phải vì họ đang ngộ nhận tôi là nhà báo (của báo Thể thao Ngày nay chăng?)


Buổi tối, chúng tôi chạy xe dọc theo bờ sông Cà Ty để hóng gió và tìm chỗ ăn tối. Nếu là người mới đến Phan Thiết lần đầu thì lựa chọn an toàn nhất của bạn để có một bữa tối ngon miệng chính là nhà hàng nổi trên sông Cà Ty vốn đã có tiếng từ lâu. Cũng trên con sông này, ban ngày, du khách có thể thuê ghe để đi 1 vòng và có một góc nhìn khác về Phan Thiết với những làng chài, những con thuyền đánh cá và cuộc sống của  ngư dân Phan Thiết. Chấp nhận một giải pháp nhiếu rủi ro hơn là ăn bụi, cuối cùng, chúng tôi đã được tưởng thưởng xứng đáng cho quyết định của mình. Một dãy các hàng quán ở dọc bờ sông trông hơi xô bồ nhưng luôn sẵn sàng phục vụ bạn những món hải sản tươi sống nhất với mức giá cả rẻ đến không ngờ. Những miếng cá lồi xối mỗ ngọt thịt với những chiếc vây toàn sụn cuốn bánh tráng. Nhửng con sò huyết, sò điệp nướng ngọt lừ và thơm phức. Sò dương xào satế cay và đậm đà. Sò lụa xốt me chua chua ngọt ngọt. Ghẹ, cua rang muối, hấp bia thật chắc và đầy gạch. Miếng mực một nắng dày, thơm nức mũi. Kêu ra la liệt các món mà chúng tôi vẫn còn muốn ăn thêm dù bụng đă no căng. Tổng cộng cho bữa ăn cực kỳ hoành tráng tính cả tiền bia la 118K. Khỏi phải nói bạn cũng biết là tôi nhiều thiện cảm với chỗ này như thế nào rồi!


Ăn xong, la cà chán chúng tôi chạy ra bờ biển Phan Thiết uống café. So với lần trước tôi đến, dãy quán café ven biển Phan Thiết đã được xây mớ, to và đẹp chẳng kém gì những Vô Thường, Tuấn Ngọc ở thành phố. Ngồi dưới ánh đèn vàng huyền hoặc, bên tai là tiếng sóng biển và đắm mình trong những cơn gió lồng lộng nhấm nháp ly café sữa nóng thật sự đã giúp chúng tôi thư giãn hoàn toàn sau một ngày ngốn hết gần 300km mặt đường. Chỉ tội cho em gái phục vụ, đồng phục là một chiếc váy hơi xòe đã khiến em cứ phải ghì chặt váy xuống trước sự tấn công dữ dội của gió biển và những cặp mắt trong quán…


Thế là “những kẻ cuồng chân” đã bước sang năm mới ở một thành phố lạ trong một trạng thái no nê và thư giãn hiếm thấy. Chờ đền hơn 12 giờ khuya, tôi chìm vào giấc ngủ …


Sáng hôm sau, bằng quyết tâm cao độ, chúng tôi thức dậy lúc 6h30 để đi ăn bánh hỏi lòng heo chia tay Phan Thiết. Con đường ra Phú Long buổi sáng mát rượi và một dãy 3,4 quán bánh hỏi đón chúng tôi trong tình trạng không còn cả chỗ để xe. Rất nhiều xe du lịch đậu kín trước cổng quán. Chúng tôi vào quán và phải mất một lúc mới có chỗ ngồi. Thế mới biết món ăn này của Phan Thiết nổi tiếng tới mức nào. Bánh hỏi lòng heo được dọn lên cho thực khách gồm một dĩa bánh hỏi, một dĩa lòng luộc, rau sống, bánh tráng và nước chấm nóng bốc khói. Miếng bánh hỏi ở đây dày, sợi to và không trắng như ở Saigon. Nước chấm theo phong cách Phan Thiết vẫn cay và ngọt. Nói chung đây là một sự kết hợp táo bạo đã khiến tôi vừa thèm đĩa bánh hỏi thịt quay vừa thèm đĩa lòng lợn tiết canh. Kết quả là tôi chỉ ăn hết ½ dĩa mà trong lòng hết sức tò mò vì nguyên nhân của cái sự đông khách và nổi tiếng của mấy quán ăn này.


Ngay lúc đó, tôi nhận được điện thoại: một tiểu đội từ Sài Gòn vừa đến Phan Thiết và muốn gặp tôi ngay lập tức….

Sunday, January 8, 2006

60




Bắt đầu từ ước mơ được đến Hải đăng Kê Gà (thật ra nó tên là Khe Gà), một nơi mà tôi cứ nghĩ về nó uy dũng, vững vàng trước đầu sóng, ngọn gió như Trương Phi gác ngang thanh Bát xà mâu trên cầu Trường Bản, một nơi mà trong những khao khát của tuổi bé thơ tôi đinh ninh rằng nó xa xôi lắm và không biết đến khi nào tôi mới đặt chân đến được…


Bắt đầu từ một bài báo đọc vội, viết về một Hàm Thuận Nam đang bừng lên sức sống mới khi hàng loạt resort chen vai thích cánh mọc lên trên bờ biển, lấn dần những làng chài hiền lành nép mình sau hàng dương…


Và như thế kế hoạch đi xuyên Hàm Thuận Nam ra đời. Sau một số những trục trặc nho nhỏ, đúng 6h30 ngày cuối cùng của năm 05, cùng một người bạn và chiếc xe gắn máy, tôi lên đường….


 


LONG KHÁNH - THỊ TRẤN NGỦ TRONG SƯƠNG.


Có thể bạn sẽ không tin tôi. Nhưng thật đấy, Long Khánh đón chúng tôi bằng một con dốc lấp loá nắng và bảng lảng sương. Tiếc là với tốc độ chạy xe lúc ấy của mình, tôi chỉ kịp trầm trồ và chỉ cho thằng bạn xem cảnh ấy mà quên cả việc phải lưu lại một tấm ảnh  (thật ra thì không chỉ lần này, suốt chuyến đi tôi còn rất nhiều lần phải tiếc nuối như thế). Xe qua dốc vào Long Khánh và từ cái bất ngờ ban đầu, chúng tôi thật sự lạ lẫm. Cả thị trấn cứ mờ mờ trong sương. Dĩ nhiên là không thể so sánh với Dalat hay Sapa nhưng giữa miền Đông Nam bộ vào một ngày cuối năm, được đi giữa làn sương ấy thật sự đã gây cho chúng tôi nhiều thích thú. Sương vấn vít trên những hàng cây hai bên đường,. Sương  lãng đãng trong những khu vườn xinh xắn. Sương mờ mịt các rừng cao su. Cây cối trong sương cứ xanh um lên. Con đường quốc lộ xuyên qua thị trấn tự nhiên vắng lặng lạ kỳ. Hai đứa mải miết chạy xe chẳng nói với nhau lời nào. Cả thị trấn Long Khánh như vẫn còn đang ngủ…


 


Qua thị trấn được một lúc lâu, tôi mới dần tan cơn mộng mị. Hoà vào dòng xe cộ hối hả ngày cuối năm trên xa lộ, tôi biết rằng từ đây Long Khánh sẽ mãi là một thị trấn ngủ trong sương….


 


 


TAKOU–CÁP TREO VÀ TƯỢNG THÍCH CA NHẬP NIẾT BÀN LỚN NHẤT NƯỚC


Chúng tôi đến chân núi Takou khoảng 10h30’. Ngọn núi nhỏ hiện lên từ xa với hệ thống cáp treo vắt ngang làm chúng tôi thêm hăm hở tăng ga cho nhanh đến địa điểm chính thức đầu tiên của chuyến hành trình. Từ Quốc lộ rẽ vào con đường trải nhựa với những vườn thanh long Hoàng Hậu xanh mát hai bên khoảng 1km là đến chân núi cũng là cổng của Khu Du lịch Núi Takou.


Vì thời gian có hạn và cũng để dành sức cho chuyến đi, chúng tôi quyết định sử dụng cáp treo để lên núi và sẽ cuốc bộ xuống núi. Hệ thống cáp treo ở đây còn rất mới với nhà ga và các khu vực phụ cận được xây dựng hài hoà với cảnh quan thiên nhiên. Chỉ mất khoảng 10’ cáp treo, khách du lịch đã có thể lên đến lưng chừng núi sau khi chầm chậm lướt trên khu rừng nguyên sinh và đỉnh núi nhỏ. Từ đây phóng tầm mắt ra xa chúng tôi đã có thể thấy biển Hàm Thuận Nam xanh ngắt cùng ngọn hải đăng nổi tiếng. Rời khỏi cabin cáp treo ở nhà ga lưng chừng núi, leo khoảng hơn trăm mét theo lối mòn là đến được Linh Sơn Trường Thọ Tự. Đây là ngôi chùa cổ nhất của tỉnh Bình Thuận. Chùa Nuí xây dựng từ năm 1897 do nhà sư Trần Hữu Đức trụ trì. Nơi xây dựng chùa do nhà Sư chọn hiện ở  đỉnh cao 457m nhưng trước đó nhiều năm đã có chùa thờ Phật bằng mái tranh vách đất. Năm 1872 nhà Sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Âm, pháp hiệu Hữu Đức từ miền trung một mình vượt nuí, xuyên rừng rậm, thú dữ, đường đi khó khăn hiểm trở lên đỉnh nuí Tà Cú tim nơi an tịnh để tu hành. Lúc còn sống, nhà sư còn là thầy thuốc giỏi, tương truyền “ vào năm Tự Đức thứ 33 Canh Thìn (1880) nhà sư đã cứu Hoàng Thái Hậu thoát khỏi bệnh hiểm nghèo bằng thuốc của mình. Vua Tự Đức đã ban sắc và đặt tên chùa là  “ Linh Sơn Trường Thọ” và nhà sư Trần Hữu Đức là “Đại lão Hoà thượng” cũng từ đó chùa có tên Linh Sơn Trường Thọ.


Tiếp tục theo đường mòn lên núi là bắt gặp nhóm tượng Tam Thế Phật: A Di Đà, Quan Âm và Đại Thế Chí. Ba pho tượng có chiều cao 7m được xây dựng ở một khoảng đất rộng. Đây là nhóm tượng đã được xếp hạng di tích quốc gia. Cách nhóm tượng này khoảng 50m, theo các bậc tam cấp ngoằn nghèo giữa rừng già là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn. Theo thống kê mới nhất trên báo Thanh Niên đây chính là 1 trong 10 kỷ lục của Phật Giáo Việt Nam, là bức tượng Phật nằm lớn nhất của cả nước. Tượng dài 49m , cao 11m được xây trong vòng 3 năm từ 1963 đến 1966 theo thiết kế của KTS Trương Thành Ý. Theo lời đồn của dân địa phương thì cách tượng khoảng 100m có một hang sâu với các truyền thuyết mà ngay cả người gan dạ nhất cũng không dám xuống đó một mình. Tôi dĩ nhiên không phảI là người gan dạ nên đành đứng bên tượng Phật để mong Phật quang phổ chiếu phù hộ độ trì cho mình mà thôi…


Tới đây thì cái balô nặng gần 20kg của tôi bắt đầu chứng tỏ sự hiện diện của mình khiến tôi không thể nào tiếp tục kế hoạch cũ là cuốc bộ xuống núi mà đành phải ngậm ngùi móc túi ra mua vé cho lượt xuống (dĩ nhiên là mắc hơn một chuyến khứ hồi). Tuy vậy, nhờ thế mà tôi biết được rằng người ta đã xây KDL Takou theo hình một cây guitar và một cây đàn nhị nối nhau bằng một cây cầu ở giữa. Xe điện của KDL đưa khách từ cổng vào đến ga và ngược lại vì thế cũng chạy loanh quanh nhiếu hơn khiến khách du lịch không cảm thấy khó chịu vì mất tiền vô ích để đi một đoạn đường ngắn như thế. Cũng là ý tưởng kinh doanh hay!