Thursday November 30, 2006 - 12:09am (ICT)
Thursday, November 30, 2006
Wednesday, October 25, 2006
Wednesday, May 17, 2006
Du Lich 30/4
Chuyến đi thuỷ điện Dami sau những chuẩn bị thật cẩn thận nhưng lại không thành làm tôi gần như rỗng khốc trong dịp nghỉ lễ. Chẳng biết mình phải làm gì, sẽ làm gì. Nhưng rồi tôi cùng tìm ra giải pháp. Sao lại không thay chuyến đi bất thành bằng một phi vụ du lịch khác nhỉ? Nghĩ là làm thôi!
* * *
Tỉnh P. đón tôi bằng cái nóng khủng khiếp. Đã gần 2h chiều. Và không gian đang bốc cháy. Con đường đất dường như vô tận nhóm lên một cảm giác lo lắng hoài nghi không biết khi nào mới đến nơi, không biết mình có nhầm lẫn gì không và rằng không biết có đúng con đường này sẽ dẫn đến ngôi làng ven biển ấy không? Thỉnh thoảng một cơn gió thoảng qua thổi tung lên 1 đám bụi đường mù mịt. Đã có lúc tôi nghĩ hẳn đấy phải là hơi thở của con rồng lửa khổng lồ nào đó.
Cuối cùng cũng đến nơi. Ì ạch leo đến đỉnh đồi thì biển hiện ra. Xanh ngăn ngắt. Nhưng nằm im lìm khép nép trước sự hùng mạnh của mặt trời. Và cả ngôi làng phô ra trước mắt. Những dãy nhà trắng trân mình chịu đựng trong ánh nắng thiêu đốt. Phố xá vắng tanh. Cửa sổ, cửa chính đóng im ỉm. Như một ngôi làng chết. Sau này tôi mới biết người dân ở đây có một giai thoại rằng : một hôm, vào độ giờ này, một người đi làm đồng về muộn vội vã đi ngang qua sân làng để về nhà nhưng đã hoá điên trước khi đến được bóng râm đầu tiên. Tất cả mọi người ở đây đều tin điều ấy.
Đây là một ngôi làng nhỏ bé và cũ kỹ. Những con đường lát đá chật hẹp chạy loanh quanh giữa những ngôi nhà đã quá già nua, ọp ẹp. Giữa làng là khoảnh sân chung. Nó là trái tim, là sinh khí của cả làng. Đó là nơi người dân tụ tập lại với nhau, là nơi của hội hè, đình đám, của những sự kiện quan trọng trong làng. Xung quanh đó là vài tiệm café nhỏ, mấy tiệm tạp hoá và một cửa hàng thuốc lá. Đàn ông ở đây nghiện thuốc lá. Bạn sẽ thấy điếu thuốc gần như chẳng bao giờ rời môi họ.
Buổi chiều xuống thật nhanh. Mặt trời đỏ ối chìm dần trong làn nước biển nhưng vẫn cố ném những tia nắng cuối ngày gay gắt vương vãi khắp nơi trên những mái nhà lô xô, trên những con đường và khắp mảnh sân chung. Cứ như là nó phải chì chiết, nguyền rủa ngôi làng rồi mới đi ngủ cho ngon được vậy. Mà đối với người ở đây thì đúng là làng của họ bị nguyền rủa thật. Nhưng đó là thời xa xưa. Ngồi nhấm nháp ly café tránh cái nóng như thiêu tôi lắng nghe bác chủ quán kể về quá khứ “dữ dội” của mảnh đất này. Thật khó mà hình dung được ngôi làng nhỏ bé hiền lành này đã từng là một nơi trộm đạo như ong. Mà bọn cướp có ở đâu xa, cũng chính là những người trong làng. Chúng cướp bóc, hãm hiếp làm cả làng tưởng như không sống nổi, phải bỏ xứ mà đi hết. Nhưng rồi cũng qua. Kể từ khi tên trùm của bọn cướp chết và hiến tất cả tài sản cho nhà thờ thì giống như là lời nguyền được giải vậy.
Nhà thờ làng. Ngôi nhà thờ nhỏ nằm bên rìa làng trông tồi tàn đến tội nghiệp. Nghe người dân ở đây bảo nó đã ở cùng họ cả trăm năm nay. Thế mà đã có lúc nhà thờ đóng cửa. Vì cha xứ giận các giáo dân của mình. Cả một tháng trời.
Bây giờ đã có chút gió biển. Lũ trẻ con rượt đuổi nhau. Những người đàn ông trở về sau một ngày lao động tụ tập bên mấy cái bàn con của quán café. Hiệu thuốc lá bỗng trở nên tấp nập lạ thường. Trên chiếc ghế mây bên cạnh cửa ra vào, một cụ bà ngồi lặng lẽ. Và đến là lạ, ở cái làng nhỏ bé này hầu như cái gì cũng có một lịch sử thật đặc biệt. Bạn có bất ngờ không khi biết cụ bà ấy chính là con gái của tên cướp năm nào. Sauk hi hắn chết, vợ con hắn rơi vào tình trạng tay trắng. Và các con hắn trong đó có bà đã chung tay xây nên cơ ngơi này. Mà cũng chính nơi này đã chứng kiến vụ hỏa hoạn lớn nhất tỉnh P. khi cả cửa hàng thuốc lá trở thành tro chỉ sau 1 đêm. Những tưởng gia đình họ đã phải ngã gục sau trận đó. Thế mà rồi từng chút, từng chút một, họ lại gầy dựng lại. Bây giờ thậm chí họ còn cho con gái đi học ngành Y trên thành phố.
Chưa được hai ngày và một đêm dừng chân tại làng, hẳn là còn rất nhiều điều mà tôi chưa hiểu hết được. Nhưng tôi biết rằng, ánh mặt trời thiêu đốt và nỗ lực vươn lên của người dân ở đây sẽ là điều mà tôi còn phải suy ngẫm.
* * *
Tiếng người lao xao cùng với tiếng lũ heo ồn ào làm tôi tỉnh giấc. Thật chẳng muốn dậy chút nào. Ngoài trời còn tối thế kia, lạnh thế kia. Còn trong chăn thì ấm sực lên. Cứ muốn lăn quay ra ngủ cho quên trời đất. Nhưng sực nhớ mình chẳng có nhiều thời gian lưu lại đây nên đành choàng dậy.
Thế đấy, mới hôm qua tôi còn phơi mình trong cái nắng đổ lửa của miền biển mà sáng nay đã tỉnh dậy giữa sương sớm, nắng mai núi rừng Tây Bắc. Sực nhớ lại tối hôm qua mà buồn cười. Trời đã xế chiều mà tôi vẫn chưa đến được S. Đang loay hoay tìm đường thì gặp ngay 1 anh gùi 1 cái chảo lớn. Nghe mình hỏi đường thế là anh ta cứ tưởng mình là thầy giáo lên dạy cho bọn trẻ trên bản. Thế là cứ vừa đi vừa nói chuyện. Nhưng anh ta cứ nhấm nha nhấm nhẳng như đang dỗi. Đến khi trời xụp tối thì anh ta bảo đưa ba lô cho anh ta. Thế là mình lo. Ngộ nhỡ lão này cuỗm mất balô thì làm thế nào? Ở đây bốn bề rừng núi biết kêu ai? Mà nếu có chuyện gì tối nay biết ngủ ở đâu? Rồi làm sao mà về? Nghĩ thì nghĩ thế nhưng cuối cùng cũng phải đưa. Sau mới biết là bởi vì con đường phía trước mảnh như sợi chỉ. Một nương ngô ngay dưới chân. Dưới nữa là vực. Nếu vác theo cả cái balô to đùng ấy hẳn cả người lẫn đồ sẽ lăn lông lốc xuống sườn núi. Nghĩ thôi đã khiếp!
Lóc cóc mò ra giếng nước rửa mặt. Cả nhà trưởng bản đã dậy cả. Anh con trai làm cán bộ xã đã đi từ sớm. Chị vợ anh đang xay ngô. Cháu nhỏ con anh chị rủ tôi ra suối lùa ngỗng. Hỏi sao lại phải lùa thì mới biết hoá ra là áp dụng nếp sống mới, không nuôi gia súc, gia cầm dưới gầm nhà sàn. Thế là lũ ngỗng mất chuồng cứ đến tối lại ra suối ngủ và sáng hôm sau lại phải đi lùa về.
Mùa này là đã qua lễ hội lớn của người dân ở đây. Lễ hội Lồng Tồng mở sau Tết Nguyên đán. Hết bản này đến bản kia mở nên người ta cứ vừa tan hội này đã thấy có mặt ở hội kia. Nghe đâu những nam thanh niên chưa vợ ai cũng sẽ mang sáo theo để làm quen con gái người ta. Vào hội, mới sáng sớm thấy con gái túm tụm với nhau thì đến trưa là đã thấy các cô đứng riêng một góc cất tiếng hát véo von sau cái ô với một anh con trai trong tiếng sáo mê say. Có khi hai người còn kéo nhau vào bụi. Để thu âm. Anh con trai mang theo một cái đài nhỏ xíu thu tiếng hát của bạn gái vào đấy để tan hội về nghe cho đỡ nhớ. Rồi còn hội thi ném còn. Khoảng giữa trưa người ta sẽ dựng giữa bãi đất rộng một cây nêu cao và treo lên đấy cái mâm bọc giấy đỏ. Thế là còn bay vun vút. Anh nào cũng muốn chứng tỏ mình khéo nhất trước mặt các cô. Và khi giấy màu trên mâm bay lả tả là lúc ban tổ chức đã kiếm được người trao quà và ánh mắt các cô đã có người để mà đo riết lấy làm lắm anh thắng giải nóng ran cả má, cả gáy, cả sau lưng…
Mùa đông trên vùng cao hẳn là rất đẹp. Hãy nghe em gái vùng cao kể về những cánh đồng tam giác mạch. Cây tam giác mạch chịu rét giỏi. Mùa đông cỏ không mọc được nhưng nó vẫn lên xanh và nở hoa rất đẹp. Càng rét thì sắc hồng càng rực rỡ. Cả bản như chìm trong rừng hoa ấy. Cuối mùa, hoa ngả sang màu hồng thẫm và lẫn vào mây mờ. Hãy nghe anh con trai kể về những đêm cá nổi. Cứ vào độ tháng Chạp ra Giêng là cá chép nổi lên tìm chỗ đẻ trứng. Ở bản người ta không ăn cá chép do quan niệm rằng nó là chúa tể nhưng cứ dịp này là mọi người ra sông vớt trứng cá để cuối năm sau là kịp có cá chép bằng bàn tay phục vụ cho người tỉnh, người huyện tiễn ông Táo về trời. Người vớt trứng chỉ việc chờ khi đêm xuống thì ra bờ sông ngồi chờ. Thỉnh thoảng phải đuổi mấy anh chuối, bống mất dạy len vào ăn trứng cá. Rồi đến sáng chỉ việc vớt những đám cỏ rác, rễ cây ven bờ lên là thấy đầy ứ những trứng là trứng. Trước đó một chút vào khoảng tháng 11 là mùa đi ong. Cây bạc hà mọc trên cao. Mùa hè là xanh um nhưng khi mùa đông về lá úa đi thì bắt đầu nở hoa tím ngắt. Nhà nào đi ong phải đón hướng gió tìm nơi nào bạc hà mọc nhiều để đặt tổ. Đến mùa ong bay đen trời, chỉ cần chuẩn bị thùng gỗ thông rồi mang mảnh vải quăng lên trời là bắt được vài chú khoẻ. Bỏ vào thùng nửa ngày rồi thả là tự khắc nó dẫn cả đàn bay về. Rồi mang thùng đặt nơi có nhiều bạc hà rồi sẽ có mật cho cả năm. Những ống mật đầu tiên của mùa ong chẳng ai đem bán. Nhà này mang cho nhà kia. Cho để mừng vui, để nhìn thẳng vào mắt nhau, để hẹn nhau ba ngày Tết cùng uống rượu mật ong nhắm thịt dê nướng….
Rồi thì còn nhiều nữa. Còn những tiếng đàn môi bên bờ rào đá. Còn những tiếng khèn lá nửa đêm len lỏi vào nhà từ nơi cối nước hay bờ suối khiến cô gái bần thần ra bên khung cửi với đống lanh chất đầy hai quẩy tấu. Còn cái cột đá treo người trên mỏm núi không cỏ cây nào mọc được của bọn lý trưởng quanh năm mây đen che phủ đứng nhìn xuống dòng sông như sợi chỉ ngoằn nghèo dưới đáy vực sâu. Còn những con suối mùa lũ hung hãn cuốn phăng phăng hết tất cả ở hai bên đường nó đi. Còn những gia đình phải bán cả mảnh đất bé xíu của mình để cho con gái lớn lấy chồng nếu không các em trai cũng không thể nào lấy vợ… Còn nữa, còn nhiều nhiều nữa. Tất cả như đã được thời gian nén chặt lại rồi phủ lên đó lớp sương mù quanh năm của những đỉnh núi. Khi nào tôi mới có cơ hội xuyên qua đám sương ấy lần bóc dỡ từng tí một những tinh thể long lanh giản dị mà vô cùng quý báu kia…
* * *
Nỗ lực trong vô vọng!
* * *
Mặt trời nhà Scorta, Laurent Gaudé – Prix Goncourt 2004 – NXB Hội Nhà Văn – 37.000
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích Thuý – NXB Công An Nhân Dân – 45.000.
Saturday, April 22, 2006
Khong Ke Truyen
Một người bạn bảo tôi sai chính tả. Kể chuyện chứ không phải là kể truyện. Dĩ nhiên là bạn đúng. Nhưng tôi cũng không sai. Tôi vừa kể truyện hay chính xác hơn là kể một tiểu thuyết. Cô đơn trên mạng. He he… thật ngớ ngẩn khi làm điều đó. Tiếu thuyết là truyện kể và tôi đã kể lại truyện kể. Nên rằng thì là hôm nay đành phải nói Không kể truyện. (những điều ngớ ngẩn không nên để nó tồn tại quá lâu)
* * *
Cô đơn trên mạng là một tác phẩm do dịch giả Nguyễn Thanh Thư con gái nhà văn Nguyên Hồng dịch từ bản tiếng Anh Loneliness in the Net. Đây là một tác phẩm nguyên gốc bằng tiếng Ba Lan S@motnsc w sieci của Janusz L. Wisniewski. Câu chuyện xoay quanh hai con người lạc lõng trong đời sống riêng. Rồi dĩ nhiên là họ gặp nhau. Tìm thấy ở nhau những an ủi mà bấy lâu nay mình khao khát. Khác biệt ở đây là tất cả những điều đó đều diễn ra trên Internet với IMs, emails và websites. Từ những dòng tin nhắn ngắn ngủi, một mối quan hệ mật thiết dần hình thành giữa hai con người xa lạ chưa từng biết mặt nhau, trở thành cái cần thiết trong đời sống, bây giờ đã gần như trở thành chung của họ. Là một cuộc phiêu lưu? Hay là một mối tình thiên thu? Họ sẽ gặp nhau? Hay mãi chỉ là những dòng chữ trên màn hình nhấp nháy? Hẳn là tự bạn khám phá sẽ thú vị hơn rất nhiều so với những truyện kể của tôi.
Cuốn sách nhiều năm liền vẫn là một best-seller ở Ba Lan. Điều này sẽ có ý nghĩa hơn nếu bạn biết rằng người Ba Lan trung bình một năm đọc chưa đến một cuốn sách. Vậy thì cái gì làm nên thành công của nó? Phải chăng chính là vì nó đã chạm rất gần và rất êm ái đến tất cả chúng ta, những người hàng ngày vẫn sử dụng Internet như một công cụ không thể thiếu. Và hơn nữa, nó khẳng định lại chúng ta rằng: những mối quan hệ trực tuyến cũng đầy say đắm và đam mê như ở đời thực vậy. Thậm chí còn chân thành và khát khao hơn khi người ta vì không phải đối mặt nhau đã chẳng cần đeo thêm bất cứ thứ mặt nạ nào và cho phép trí tưởng tượng làm việc hết công suất của nó. Chúng ta tìm được bạn bè qua mạng, chúng ta tìm được đối tác qua mạng, thì tại sao không phải là tình yêu qua mạng?
Bạn không đồng ý với tôi? Bạn cho rằng mội trường ảo quá nhiều cạm bẫy và trí tưởng tượng của tôi đôi khi sẽ “hiệu quả” quá mức tôi mong đợi? Tôi hiếu ý bạn nhưng có phải giữa đời thực bạn luôn nhìn nhận đúng về bất cứ ai? Có phải bạn không bao giờ gán cho những người bạn gặp một thuộc tính nào đó mà họ không bao giờ có? Hơn bao giờ hết, tôi thấy mạng cũng như cuộc sống. Quan trọng là chính chúng ta thật đến mức nào!
Không chỉ hiện đại với các chương trình phần mềm, với ICQ, với email,… tác giả với hai bằng tiến sỹ, hai bằng cử nhân và hiện đang là giáo sư đại học, biên tập tạp chí hóa-tin Molecules này còn mang đến cho người đọc rất nhiều thông tin khoa học về genes, về cấu trúc xoắn của ADN, về bộ não của Einstein… Một bộ phim cùng tên cũng đang được tiến hành ghi hình nhưng đáng tiếc là do các nhà sản xuất của Ba Lan thực hiện nên cơ hội để xem phim này có lẽ rất ít. Còn bản dịch tiếng Việt hiện nay đang được bán tại các quầy sách. Nếu bỏ qua một số lỗi dịch thuật thì cuốn sách 59.000 VND này xem rất được.
Wednesday, April 19, 2006
Ke Truyen
ĐỪNG ĐỌC NẾU EM KHÔNG THÍCH BUỒN. VIẾT BLOG LÀ ĐỂ EM TỰ QUYẾT ĐỊNH THỜI ĐIỂM ĐỌC MÀ!
CÔ: Anh đi khỏi và tự nhiên cô thấy trống trải khủng khiếp. Cô type:
Thế giới vắng anh của em bỗng trở nên im ắng quá!
* * *
ANH: Chính thức thì anh đến để giải độc. Trong căn nhà tồi tàn, bẩn thỉu ở ngoại ô Wroclaw mà người ta gọi là bệnh viện tâm thần ấy. Nhưng anh muốn nói với em điều này, mặc dù thật xấu hổ , rằng hàng vốc thuốc mỗi sáng và chiều cũng không thể hữu ích cho anh hơn là những bi kịch và phiền muộn của mọi người. Trong cái đầm lầy của nỗi buồn, sự vô lý, lòng thù hận và ai oán thế giới, chúng như những sợi dây thừng để người ta bám vào và leo lên từng tí một.
* * *
Em đã nhiều lần hỏi anh về những người phụ nữ của anh. Những gì em sẽ đọc nhiều khi gây sốc và tràn ngập nỗi buồn. Vì vậy em đừng đọc bây giờ nếu em không muốn buồn. Cũng chính vì vậy mà anh viết cho em email này thay vì trả lời trực tiếp trên ICQ. Cái chính là để em tự quyết định thời điểm đọc thư.
Thực ra cho đến lúc này, trong đời anh, chỉ có một người phụ nữ. Là Natalia.
Một buổi trưa tháng giêng, ở ô cửa lấy súp trong nhà ăn bách khoa, anh ngồi ngay trước chậu đựng thìa và bánh mì để rồi cảm thấy mặt và tay mình bỏng rát khi một cô gái bị người khác xô phải và hất cả bát súp nóng lên người anh. Anh muốn văng tục. Nhưng anh bắt gặp ánh mắt cô ấy. Xanh biếc. Hoảng sợ. Đẫm nước. Hai tay cô ấy chắp lại như cầu nguyện và cô ấy thậm chí không thốt lên được lời nào. Rồi cô ấy kêu lên âm thanh gì đấy không rõ và đột ngột bỏ chạy. Chị đừng chạy. Hoàn toàn không nóng tí nào. Không làm sao đâu mà. Thật đấy. Người phụ nữ lớn tuổi nãy giờ vẫn đi cùng cô chạy theo. Còn anh, đó là lần đầu tiên anh được nói chuyện cùng Natalia.
Từ hôm đó anh mong gặp cô ấy. Anh đến nhà ăn vào tất cả các ngày và ngồi ngay trước ô cửa phát súp. Hơn 1 tháng. Cô ấy bặt tăm.
Chủ nhật. Anh đến thư viện trên chuyến tàu điện đông nghịt các giáo dân đi lễ về. Ở một khúc quanh có ai đó nghiêng người, tựa vào anh. Người ấy không có lựa chọn nào khác trên chuyến xe ken đầy người thế này. Anh ngạc nhiên nghẹt thở. Là chị! Cô ấy nhắm mắt không nói. Bọn anh cứ đi như thế. Ép sát vào nhau. Và anh chỉ cầu cho tình trạng này mau chấm dứt. Thật nhanh. Anh lên và hẳn cô ấy không thể nào không nhận ra điều đó.
Sau vài tuần thì anh nắm được lịch của cô ấy. Nhưng cô ấy đi đâu cũng có người phụ nữ kia đi cùng. Một tháng sau, thứ năm, ngày mà anh biết họ sẽ ở nhà, anh đã quyết định. Ôm tất cả các cành hoa lili của cửa hàng trong thị trấn, anh bấm chuông để rồi muốn bỏ chạy. Không kịp. Người phụ nữ đã mở cửa. Cháu có thể nói chuyện với…với…. Natalia? Bác là mẹ Natalia. Anh không thể. Nhưng anh cứ vào đi.
Cô ngồi đó. Nhìn anh chăm chú. Cái này là của em. Em có thích lili không? Im lặng. Cô đến bên anh, nhận hoa và im lặng. Natalia rất thích. Nhưng nó không thể tự nói với anh về điều đó. Em nó bị câm và điếc.
Lần đầu tiên bọn anh được ở một mình bên nhau. Anh tên là Jakub. Kể từ hôm em đổ súp lên người anh, lúc nào anh cũng nghĩ đến em.Anh có thể thỉnh thoảng gặp em được không?
Natalia nhìn anh bất động. Cô ấy không giúp anh. Lúc nào cô ấy cũng giúp anh khi trò chuyện. Nhưng lần này thì không. Anh phải cảm thấy từ phút đầu tiên và mãi mãi sau này, rằng cô ấy là người khuyết tật.
Anh tìm thấy một tờ giấy và viết cho cô. Cô ấy nhìn xuyên thấu vào mắt anh. Để làm gì cơ chứ?Anh sẽ đến đây và chúng mình sẽ viết? Anh sẽ rủ em xem phim và em thậm chí không thể nói với anh rằng em có thích phim ấy không? Anh sẽ rủ em đến chỗ bạn bè anh và em sẽ không nói câu nào? Anh cần điều đó làm gì?
Cô ấy khóc. Và anh phải ra về.
Hai ngày sau. Anh vẫn đến chỗ phát súp. Natalia ngồi đó. Đẩy về anh tờ giấy. Em tên là Natalia. Không lúc nào em không nghĩ đến anh kể từ hôm em đổ súp lên người anh. Em có thể thỉnh thoảng gặp anh được không?Anh yêu cô ấy ngay từ lúc đấy.
Natalia chỉ sống cùng mẹ. Bà là một nhà trùng tu di tích nổi tiếng trong khi bố cô là cán bộ đảng uỷ địa phương. Họ chia tay nhau sau khi ông tự thú một bí mật khủng khiếp và tự nguyện rời khỏi nhà. Bà nuôi dạy cô một mình, không bao giờ nói một điều gì xấu về ông, không cấm Natalia gặp ông nhưng cũng không bao giờ cho ông đặt chân vào nhà. Natalia đã là mục đích sống tối thượng của bà. Và để yêu cô ấy bên người mẹ như thế thật khó. Bà chấp nhận sự tồn tại của anh như chấp nhận bó bột cho cái chân gãy. Bắt buộc phải có, rồi sẽ qua đi và lại như trước đây.
Với bà, anh đã chiếm Natalia của bà từng chút một. Cô ấy đứng trước cổng trường anh để là người đầu tiên biết anh thi ra sao và ôm chầm lấy anh. Cô ấy biết khi nào anh lạnh, khi nào anh nóng. Cô ấy đọc những cuốn sách anh thích để có ý kiến riêng và tranh luận với anh. Cô ấy chẳng thấy chút gì hấp dẫn ở môn Toán nhưng lại thích khiêu khích anh để nghe anh thuyết phục. Cơ bản vì cô ấy biết anh thích thuyết phục và lấn lướt cô ấy .
Thậm chí, cô ấy mua máy nghe đĩa.
Em có hình dung được không? Cô ấy mua cho anh những cái đĩa mà chính mình không thể nghe. Và yêu cầu anh kể cho cô ấy về âm nhạc.
Anh học tốc ký. Anh học lớp ngôn ngữ ký hiệu. Anh đứng trước mặt cô ấy. Hai ngón tay trỏ hai lần dưới xương đòn. Vẫn hai ngón tay ấy hai lần về phía người đối diện. Chỉ đơn giản thế. Anh yêu em. Hai lần dưới xương đòn. Hai lần phía người đối thoại…Natalia đã quỳ dưới chân anh. Và khóc.
Tất cả với Natalia đều đơn giản và tự nhiên. Như hôm cô ấy mời anh đến nhà ăn tối khi mẹ đi vắng. Cô ấy mở nhạc, vào phòng tắm một lúc rồi bước ra cùng chiếc chemise gần như trong suốt cùng một mảnh giấy. Jakub, anh mang cho em nụ cười và nước mắt. Suốt tối em cứ phân vân mãi. Phải thú thật với anh rằng gần đây điều mà em mong muốn nhất là đưa anh đến đỉnh điểm. Mặc dù điều này thật phi lý, bao giờ Natalia cũng đề nghị anh thì thầm, không phải nói mà là thì thầm, những gì anh cảm nhận mỗi khi anh đặc biệt thích. Thật ra, anh luôn thì thầm.
Từ ngày đầu tiên, Natalia đã miêu tả thế giới của mình cho anh. Cô ấy viết. Anh chưa thấy cái gì mà cô ấy không viết ra được. Thậm chí, cô ấy còn nhìn thấy nhiều hơn chúng ta. Khiếm thính với thế giới thực, cô ấy tự tưởng tượng làm thế nào để diễn tả tiếng giọt nước đang rơi từ vòi nước rò trong bếp, tiếng trẻ con khóc cười, tiếng hơi thở khi cô ấy hôn anh. Natalia đã tạo ra một thế giới khác, đẹp hơn. Và anh thì cứ đòi cô ấy kể về những hình dung âm thanh của mình. Đến mức cô ấy phát chán và nổi giận. Nhưng khi hiểu được rằng anh cần những điều đó xiết bao, để được “nghe” như cô ấy, Natalia đã ghi lại tất cả những tưởng tượng của mình vào một cuốn vở dành riêng cho anh. Còn anh, thuộc chúng như những bài thơ.
Sự mô tả của cô ấy đúng đến đáng kinh ngạc.
Và anh tin rằng một ngày nào đó, Natalia sẽ nghe được. Vấn đề chỉ là thời gian và kiên nhẫn.
Rồi đơn giản là nó đến. Không kèn trống. Khi anh đang tổ chức cho trường Hội nghị của các nhà phẫu thuật Ba Lan để có thêm vài trăm zloty vào tiền học bổng. Anh chưa bao giờ thấy ngần ấy rượu trong bất kỳ hội nghị nào. Và khi các nhà phẫu thuật bắt đầu buổi dạ vũ trong men say, thì anh cũng không còn là đối tác của cuộc chuyện trò nào nữa. Anh nhận thấy cùng bàn với anh có một ông già. Trông như một lão nông Ucraina. Mà ngạc nhiên làm sao khi các người bạn đang say liên tục ghé qua chỗ của ông để rồi tỉnh rượu trong giây lát và lắng nghe ông chăm chú thông qua một cô phiên dịch. Tất cả những người điếc bẩm sinh đều liên quan đến những tổn thương của hệ thần kinh trung ương….Nhưng ở Lvov, chúng tôi giải quyết vấn đề này như bỡn. Bằng phương pháp cấy sên ốc. Em biết không, trong vô thức anh đã xiết chặt tay cô phiên dịch khiến cô này bật la lên và lập tức lùi xa khỏi tầm tay anh một cách giận dữ và cảnh giác.
Khi anh chạy khỏi trường đã là 4 giờ sáng. Em sẽ không thể tưởng tượng được khi em muốn nói với ai đó một điều vô cùng quan trọng và em không thể. Anh đã nói không ngừng nghỉ về việc cấy sên ốc, rằng Natalia sẽ nghe được, rằng anh yêu cô ấy vô hạn, rằng cô ấy chỉ phải học nói nữa thôi, rằng bọn anh sẽ có con, rằng người Mỹ cũng đến đấy, rằng anh hoàn toàn không say, rằng những đứa trẻ sẽ nghe được, rằng…
Natalia đi quanh phòng với mái tóc rối, chiếc váy ngủ bồng bềnh và đôi mắt long lanh nước khi mẹ cô ấy giải thích bằng ký hiệu. Vội vã. Hăng hái. Như một tiếng thét. Bằng ký hiệu.
Tám giờ sáng. Anh đứng trước cửa phòng làm việc của bố Natalia. Tay ông run lên khi bấm số. Ông sắp xếp mọi thứ. Mười một ngày sau, Natalia ra ga đến Lvov.
Ngày nào bố Natalia cũng gọi cho Lvov. Rồi gọi cho anh. Và anh gọi cho mẹ cô ấy.
Natalia thì viết thư mỗi ngày. Ba cái. Cho mỗi người. Mẹ cô ấy đọc thư cho anh nghe mỗi ngày. Anh thì chỉ đọc cho bà nghe một lần. Và mãi mãi anh vẫn nhớ nó. Vẫn nhớ..Em nhớ anh đến mức ù tai đi. Một người điếc ù tai vì nhớ…đã nhớ một ít ngay cả khi anh ở gần em. Để sau đó anh về, đỡ nhớ hơn…bao giờ nghe được thì đầu tiên em sẽ học nói tên anh…em sẽ ngồi trên đùi anh, hôn anh từng ly từng tí một. Anh hãy hứa là không được cởi áo váy của em trước khi em hôn xong…Em ở cùng một người đàn ông. Tên Vitia và lên 8. Bọn em thường chơi trước sân, nơi có những chiếc hố rất to do các xe đào đang xây dựng bệnh viện để lại…Chỉ hai ngày nữa là mổ. Thứ sáu. Anh cũng sinh vào thứ sáu…Em ngưỡng mộ anh! … P.S:Thế giới thiếu vắng anh của em bỗng trở nên im ắng quá!
Thứ sáu. Anh chạy vội ra xe buýt từ khoa. Có chiếc Volga đen đang đỗ cạnh bãi xe. Bố Natalia đến cạnh anh, khẽ nói bằng một giọng hoàn toàn xa lạ. Natalia chết sáng nay rồi. Hôm qua một chiếc xe đào đã cán nó. Thằng bé thì cụt cả hai chân. Nó không thấy cái xe và cũng không thể nghe được Natalia. Anh lấy tay bịt miệng ông lại. Ông cắn tay anh để nói. Và anh quay đầu chạy trong tiếng kêu của ông khi đó nghe như tiếng chó tru. Jakub, đừng bỏ bác lúc này. Jakub, cháu phải đưa nó về..Jakubbb, mẹ kiếp…
Như còn bé, anh lại chạy về nhà. Ôm chặt lấy bố. Ông không hỏi gì. Và vào đêm ấy anh hiểu tại sao ông lại uống rượu khi mẹ anh mất. Rượu như thể oxy vậy.
Con phải đi đưa nó về. Con còn hai tiếng để đổi rúp. Phòng đổi tiền nghẹt khói thuốc và người xếp hàng. Anh chờ trước cửa đang phục vụ một tiếng đồng hồ trong khi gã nhân viên liên tục ngốn bánh mì kẹp.
Không có rúp. Chúng tôi chỉ có rúp vào thứ hai và thứ tư.
Tôi không thể chờ đến thứ hai được. Anh phải có rúp. Tôi cần đưa cô ấy về trước Chủ nhật.
Tôi chẳng phải có gì hết. Gã cười, phủi mớ vụn bánh và nhìn quanh với vẻ đắc thắng chờ đợi những tràng cười của mọi người.
Anh lấy cái gạt tàn. Đập vỡ tấm kính. Có tiếng la hét. Gã nhân viên nghẹn cứng miếng bánh mì nơi cổ khi anh dùng hết sức bóp cổ hắn. Sao mà anh muốn giết hắn thế cơ chứ!
Anh bị còng tay dẫn đi. Cái dùi cui vung lên. Máu chảy tràn trên xe.
48h sau họ thả anh với vô số tội danh. Và anh bị đuổi khỏi cả hai trường đại học.
Natalia cũng về đến. Trong một cái tủ lạnh mà hãng hàng không dùng chứa thức ăn. Lvov không có quan tài kẽm mà chẳng có cú điện thoại nào cho nhân vật nào đó vì bố cô ấy lại đang nằm bất tỉnh trong viện vì say rượu và đâm vào xe điện, sau khi báo tin cho anh.
Anh như sống trong sự trừng phạt. Anh căm thù những buổi sáng vì nó nhắc anh biết rằng đêm đã hết. Nhiều hôm thậm chí anh không ra khỏi giường mà nếu có cũng chỉ đi để xem có đúng bố anh đã mang tất cả rượu ra khỏi nhà không? Bố làm tất cả để bẩy anh khỏi cái hố đó. Ông lấy nước pha loãng rượu. Ông đi thư viện và đọc sách cho anh nghe hàng giờ. Ông không hỏi về tương lai. Nhưng rồi anh bị suyễn. Nhưng rồi anh đâm sợ hãi mọi thứ. Thậm chí không rõ là sợ cái gì. Sau chừng nửa năm, buổi tối anh thiếp đi vì thuốc chống trầm cảm uống bằng rượu pha nước cam và buổi sáng tỉnh dậy dưới cái máy thở và đống dây da lằng nhằng buộc chặt anh vào giường.
* * *
Sự cảm thông, tình yêu thương và ý nghĩa của cuộc sống lại thoát ra được. Khi chị hộ lý đẩy mục sư Andrzej ra khỏi phòng khám ngang qua anh. Anh đã không vào phòng khám. Anh đã ngộ ra. Dù anh đau khổ vì tình yêu với Natalia thì tình yêu đó thật sự đã rất đẹp, viên mãn và cô ấy là người không thể thay thế.
Anh xin được về. Lặng lẽ. Suy tư. Thay vì uống như trước đây thì anh đọc. Từ sáng đến tối.
Cho đến một hôm, chuông cửa reo. Chẳng có ai ngoài cửa mà chỉ là một gói giấy có học bạ và quyết định của hai trường trả lại anh quyền sinh viên. Bên kia đường, cha Natalia chầm chậm chống gậy đi về phía chiếc Volga.
Tháng mười. Mọi việc lại như cũ. Chỉ có Natalia là không đến được. Có nghĩa là có nhưng không đến được. Thỉnh thoảng sau khi thi anh lại quên và đưa mắt tìm cô ấy. Chẳng phải cô ấy sẽ chờ và ôm chầm lấy anh mỗi khi anh từ phòng thi ra hay sao?
Ngày hôm ấy trên mộ Natalia có hạt dẻ. Natalia thích dẻ và hẳn là mẹ cô đã đem đến. Anh thì chỉ đến kể cho cô ấy nghe bài thi sáng nay. Cô ấy chắc sẽ tự hào về anh. Hai ngón tay trỏ hai lần về phía xương đòn. Rồi về người đối thoại. Đơn giản biết bao…
Friday, April 14, 2006
Ke Truyen
Sáng ra, mấy người phụ nữ đi lễ sớm ngửi thấy hơi rượu. Họ tìm thấy cha Andrzej cạnh bệ thờ. Trên cánh tay trái của anh , có thể đọc được dòng chữ rướm máu: không có Chúa!
***
Thật khó tưởng tượng được những gì mà gia đình của Andrzej phải chịu khi anh trở về từ chuyến du lịch sau lễ Phục sinh. Anh hoàn toàn hạnh phúc, đầy ắp sự hài hoà và tĩnh tâm còn bố mẹ anh thì suốt hai tuần liền không dám giáp mặt láng giềng. Bởi anh là niềm tự hào, là lời thanh minh duy nhất cho sự kém thành đạt của họ, bởi khi người ta đi nghỉ hè ở Bungary, mua ô tô, mua những món đồ gỗ sang trọng thì họ chỉ có Andrzej, và, bởi tăng hội, nơi mà anh đang phụng hiến, so với trường Đại học Kiến trúc anh đang theo học được 2 năm thật là một sự mất giá ghê gớm! Làm sao chịu nổi khi chính Andrzej giờ đây là người hàng đêm quỳ trước Thánh giá lâu hơn tất cả, là người nằm sấp tay giang ngang giống Thánh giá hơn tất cả!
Còn Andrzej, anh học 6 thứ tiếng và là một nhà thần học, một triết gia tài năng. Anh nhận học bổng của Học viện Giáo hoàng để đi Rome và trở về cùng tấm bằng tiến sĩ. Anh hát cùng các tín hữu những bài Thánh ca, chơi guitar trong những đêm lửa trại và chơi phong cầm trong các nhà thờ. Những buổi lễ sớm cùng anh thật sự trở thành những cơ hội trò chuyện cùng Chúa hay ít ra là cùng sứ giả của Người. Ai ai cũng yêu quý anh! Phụ nữ càng yêu quý anh dù với nhiều người trong họ, tình cảm ấy không phải chỉ vì những buổi cầu nguyện, vì guitar hay vì đàn phong cầm, kèn oboa.
Cho đến một hôm, chiếc xe ủi đi qua đoàn hành hương đến Czestochowa do anh dẫn đầu làm hai người trong đoàn bị thương nặng. Người bị nạn cần truyền máu. Và cả hai, anh cùng xơ Anastazja, một nữ tu dòng Carmel ở Lublin có mặt trong chuyến đi, đều san sẻ một ít máu của mình cho người bị nạn bởi máu của họ cùng nhóm, cùng chỉ số Rh và phù hợp với hai con người đang hôn mê nằm đó.
Cho đến cuối cuộc hành hương, cả hai luôn ở bên nhau.
Trong buổi cắm trại cuối cùng trước khi đến Czestochowa, khi Andrzej đến ngôi nhà thờ nhỏ ở rìa làng để cầu nguyện, Anastazja đã quỳ ở đó tự lúc nào.Khi anh đi khẽ và quỳ xuống bên cô, dù anh không có ý định đó, họ đã chạm khẽ nhau và cô không dịch ra. Cả hai cùng cầu nguyện một điều. Sau này họ đã kể với nhau như vậy. Rằng xin Chúa hãy giải thoát họ khỏi nỗi thèm khát được gần bên nhau. Xin Người! Và cũng ngay ở đấy, ngay những phút đầu tiên ấy, khi họ hoảng hốt dịch ra xa nhau vì người trông coi nhà thờ bất ngờ bước vào để tắt nến, họ biết rằng: thế giới, cả thế giới không chấp nhận điều đó!
Sự phản bội Đấng Toàn năng. Một điều mà không có cách gì giấu nổi. Không phải giấu các hành vi. Mà là những khát khao, cảm xúc, ước mơ.
Rồi họ giết chết những cảm xúc đó bằng mọi cách. Anh chạy trốn sang Rome bằng một học bổng 3 tháng. Nhưng liệu điều đó có ích gì khi mỗi sáng anh dậy từ sớm và chờ thư của cô.
Lẽ ra anh không được chờ! Anh đã chờ.
Lẽ ra cô không được viết! Cô đã viết.
Anh rời Rome bằng tàu hỏa. Thay vì dừng ở Krakow, anh lại đến tận ga Lublin. Anh đã chuẩn bị tất cả để nói với cô rằng lẽ ra không nên như thế. Anh đã thuộc lòng. Từng từ một.
Họ đứng trong cổng tu viện của cô. Không nhìn nhau, như những tội đồ, họ nhìn xuống đất. Sợ cả những ý nghĩ của chính mình. Rồi cô nắm tay anh. Và họ chạy. Đến một công viên nào đó. Dưới một gốc cây nào đó. Cô dùng lưỡi lách qua môi anh và đẩy nó vào giữa hai hàm răng anh nghiến chặt vì kinh ngạc, và vì phấn khích.
Đó chỉ là sự khởi đầu. Còn sau đó là tội lỗi! Họ gặp nhau ở mọi nơi. Càng xa Krakow và Lublin càng tốt. Rồi người phụ trách tu viện Lublin cũng biết. Từ một lá thư nặc danh của một sĩ quan SB vốn đã theo dõi cha Andrzej từ lâu vì trái với mong muốn của mình, anh đã đi vào lịch sử của phe đối lập ở Ba Lan khi anh giáng cho tên sĩ quan một cái tát như trời giáng ngay giữa trại quân sự. Anastazja bị gởi đến một làng nhỏ. Và một bức thư gởi cho người phụ trách ở Krakow. SB một lần nữa lại nhúng tay vào và bức thư chỉ đi được ½ đoạn đường. Cuộc tình phải tiếp diễn.
Và nó tiếp diễn. Trong những căn lều hoang. Trong các khách sạn. Cho đến khi người phụ trách Lublin không thấy phản hồi từ Krakow đã đích thân đến đó. Cha Andrzej bị chuyển đi Swinoujcie một tuần sau. Và cả thế giới bắt đầu biết.
Không ai nói chuyện với Anastazja. Cô không được đến nhà nguyện mỗi tối. Cô bị nhắc nhở suốt ngày. Và một hôm, tại chỗ của cô trong phòng ăn là một bức thư của anh để mở. Cô im lặng đánh đổi từng nỗi khó chịu bằng tình yêu, mỗi ngày mỗi lớn với anh.
Một bao cao su đã sử dụng được ném vào phòng xưng tội nơi anh vẫn ngồi nghe xưng tội. Một phong bì không dán đầy những mẩu báo và hình ảnh các bé gái bị xâm hại. Các nữ giáo dân đều đặn gởi “phẫn nộ thư” cho linh mục.
Anastazja biến mất. Cùng với chiếc ô tô của tu viện. Cô đi Czestochowa. Trên đường về, tại một đoạn đường thẳng, khô ráo, xe cô lấn phải và lao thẳng vào gầm một chiếc xe đông lạnh. Ngay giữa gầm. Không có dấu phanh xe.
Giáng Sinh đến một tháng sau đó. Sau Đại lễ, khi mọi người đã ở nhà chào mừng Chúa hài đồng, cha Andrzej đến một nhà thờ nhỏ. Anh đến cạnh bệ thờ, để lên đó chai nước thánh, chai rượu và một lọ mực tàu. Trộn mực vào nước thánh. Lấy kim từ túi áo khoác. Đứng chính xác đối diện Thánh giá. Và bắt đầu xăm.
***
Ở đây, trong phòng đợi của bệnh viện tâm thần, cách anh một mét, một người đàn ông không thể gầy hơn được nữa ngồi trên xe lăn. Ông nhìn anh bằng cặp mắt mở to thao láo trong hai hốc mắt to hơn cái chúng chứa những hai số. Trên cánh tay nhìn thấy dưới tay áo pajama ngắn, bẩn, mạng lỗ chỗ, có thể đọc được mấy dòng chữ bằng mực đen nay đã bạc: không có Chúa!
Dù rằng chị hộ lý khẳng định với anh rằng, cha Andrzej không thể nghe, không bao giờ nói và cha luôn nhìn như thế ngay cả khi ngủ, trong khoảnh khắc, anh thoáng thấy nụ cười trên môi ông khi ông được đẩy ra từ phòng bác sỹ. Và anh ngộ ra điều đó…
Tuesday, February 7, 2006
60 - IV
LỘC AN - HỒ CHÍ MINH: NHỎ&XINH, ĐỜI CÁT VÀ CON ĐƯỜNG HOA ĐÀO ĐÃ MẤT
KDL sinh thái Lộc An bé xíu. Hồ bơi bé xíu. Khoảnh sân bé xíu. Tôi chưa từng thấy resort nào mà bé như thế, nhất là khi tôi đến vào buổi tối như thế này, cả KDL lọt thỏm trong một vùng tối mênh mông của biển của rừng vây quanh.. Tất cả tiện nghi cần thiết đều có nhưng đều nhỏ nhắn xinh xắn đến thú vị. Nụ cười và giọng nói Đất Đỏ hướng dẫn chúng tôi đến tận cửa phòng và cứ tần ngần ở đó đầy vẻ lo lắng cho hai vị khách lúc này chắc đã xơ xác lắm…
30’ ngâm mình trong nước nóng đã giúp tôi refresh hoàn toàn. Bây giờ mới có thể tập trung thăm thú cái resort này. KDL Lộc An đã rất khéo léo biến điểm yếu của mình thành unique. Tận dụng lợi thế không gian nhỏ, những người thiết kế đã cố gắng tạo nên một không khí thân mật gia đình bao trùm khắp cả KDL. Này là khoảnh sân nhỏ với vài chiếc bàn xinh xắn, vài chiếc ghế bố xoay ra đón gió biển. Này là gian bếp rộng cửa lao xao tiếng cười nói, tiếng xào nấu thức ăn, tiếng lanh canh bát đũa. Và thú vị nhất là chính du khách cũng góp phần tô đậm hơn cái không khí đầm ấm ấy. Mấy em nhỏ chạy chơi trong sân gọi nhau í ới. Hai vợ chồng ngồi bên nhau hóng gió, chốc chốc lại nhắc đứa con cẩn thận kẻo ngã.. Làm nhớ về ngày xưa quá đỗi, những buổi chiều mẹ ra sân hong tóc trò chuyện với bà giáo nhà bên để rồi xót xa khi thấy con mình cứ chạy loạn cả lên, mồ hôi mồ kê mướt áo. Đứa trẻ quá vui vì một ngày mẹ về nhà sớm, được lau mặt lau tay lại càng phấn khích nhảy nhót tợn, hết tin tin ô tô lại tu tu xe lửa, rồi cao hứng lại còn gào lên bài hát nào đó mà hồi sáng cô giáo vừa dạy ở trường…
Chúng tôi ăn tối trong tiếng dương cầm lãng đãng. Đây là dịch vụ đặc biệt của những ngày cuối tuần và tôi cực kỳ hài lòng khi lần lượt rất nhiều những bài hát của Phạm Duy cùng các nhạc sỹ nổi tiếng khác được người nhạc công và một nữ ca sỹ chơi lại. Không chuyên nghiệp, không sắc sảo nhưng tạo cho người nghe một cảm giác dễ chịu, thích thú như được nghe lại một cuộn băng cassette của ngày xưa. Kỷ niệm, Tình hoài hương, Tình ca, Nghìn trùng xa cách,…cứ nhẹ nhàng ngân nga. Thằng bạn tự nhiên nổi hứng bắt mình hát. Hát thì hát nhưng Phạm Duy mà để mình hát thì hỏng bài nên mình đành chọn bài khác vậy. Thế mà hát xong cũng có mấy bác hơi già già vỗ tay nồng nhiệt thậm chí nghe thằng bạn thuật lại là có mấy người còn hát theo làm cười tít cả hai mắt hí.
Buổi sáng ở biển Lộc An cũng mang lại nhiều bất ngờ thích thú. Phát hiện ra rằng chỗ mình ở được bao bọc bằng một cái đầm to và phải đi đò ngang qua đó thì mới đến được biển. Sáng hôm đấy trời nhiều mây nên mặt trời cứ dùng dằng mãi mà vẫn chưa tỉnh hẳn. Thế là dù thức hơi trễ một chút nhưng vẫn có cơ hội ngắm mặt trời lên. Sáng nay thức dậy, vẫn còn thấy mặt trời…
Sau khi ăn sáng, chúng tôi bắt đầu lên đò ngang sang sông. Em đưa đò quê tận Hà Tây vui vẻ nhường cho chúng tôi cây chống để thử sang sông. Nhìn em ấy làm thật đơn giản, con đò cứ phăng phăng, thế mà khi tôi chống thì nó cứ xoay mòng mòng. Vật vã chán tôi đành bỏ cuộc, thõng chân nghịch nước trong khi con đò cập bờ êm như ru…
Đi qua một bờ cát, bãi biển Lộc An hiện ra trước mắt chúng tôi mênh mông bát ngát. Vì nằm gần cửa sông Ray, nhiều phù sa, biển ở đây là biển cát đen, vẫn có thể tắm được nhưng trông thì không đẹp mắt lắm. Biển và cát cứ đan xem nhau như răng lược. Biển liếm sâu vào bờ và cát vươn ra tận ngoài xa. Chúng tôi quyết định lấy xe chạy dọc bãi biển. Cửa biển Lộc An là nơi đổ ra biển của sông Ray và sông Hỏa với truyền thuyết nước nhảy sinh ra thác sông Ray và cuộc thi tài ra biển lớn của hai con sông khiến cho ở vùng cửa sông có hai dòng nước khác biệt. Hiện tượng thú vị này hoàn toàn có thể quan sát bằng mắt thường nếu du khách có điều kiện đi thuyền lớn ra cửa sông. Tuy nhiên, vì lý do an toàn, hiện tại KDL sinh thái Lộc An đang tạm ngưng cung cấp dịch vụ này. Nếu có thuyền, một tour du lịch sinh thái đi dọc bờ sông kèm theo câu cá và tham quan cửa biển hẳn sẽ rất thú vị. Cố gắng lắm thì chúng tôi cũng không thể vượt qua bãi bùn gần cửa sông. Ì ạch lôi chiếc xe bị lún gần ½ bánh trong bùn lên, đành hẹn cửa sông Ray một lần khác vậy….
Ngư dân đã bắt đầu một ngày làm việc mới. Ở kia là một gia đình đang bủa lưới. Ở đây là một nhóm các bà, các mẹ đang cào nghêu. Tất cả đều chăm chú vào công việc của mình mặc cho mặt trời đã lên cao và ném xuống những tia nắng ngày càng gay gắt. Tấm lưới kéo lên bờ, người cha đi sau cuốn dần lại trong khi hai đứa con tẩn mẩn gỡ các mắt lưới lấy ra những con cá bé xíu. Thỉnh thoảng, xôn xao một niềm vui nho nhỏ khi trong lưới có một con cá to hay một con cua. Cứ thế, ba cha con lặn lội gom góp cho cái xô cá sứt mẻ của mình… Mấy người phụ nữ thì đang chăm chú cào nghêu. Họ đã nghĩ ra đủ các phương pháp để làm việc. Có chị thì xách rổ và 1 cái muỗng to đi dọc bờ biển, chốc chốc lại xắn xuống, múc lên 1 muỗng cát và y như rằng có 1 chú nghêu lấm lem trong đó. Xa xa, mấy bác lớn tuổi hơn đang phong toả cả một khu rộng. Bắt đầu từ một chỗ, họ dần mở rộng “khu vực khai thác” của mình ra bằng cách dùng muỗng xúc cát như thể người ta múc tàu hũ để bán. Chẳng có con nghêu nào thoát khỏi bởi họ tỉ mẩn xúc từng milimét một. Ít thủ công hơn 1 chút, người ta làm ra 1 công cụ cào nghêu là một thanh tre ở trên đầu có gắn một tam giác kim loại. Ngừơi cào nghêu sẽ tựa thân thanh tre lên vai và quàng 1 cái dây được cột vào chổ nối của thanh tre và tam giác quanh chân, nhấn phần đáy của tam giác vào cát và đi lùi dần về sau cho đền khi nghe cụp một tiếng thì moi chú nghêu vừa bị va ấy lên. Tôi cũng hào hứng xin được cào thử. Dù luôn miệng khẳng định rằng tôi sẽ không làm được nhưng người phụ nữ trông rất ốm yếu cũng vui vẻ trao cho tôi chiếc cào. Và tôi làm không được thật. Chẳng có tiếng “cụp” nào vang lên để tôi có thể hớn hở nhặt một con nghêu bỏ vào giỏ. Cái cào trong tay tôi nặng khủng khiếp và cứ trầy trật khi dưới cát khi trên mặt đất. Ngượng ngùng trao lại thanh tre cho cô cào nghêu, tôi hỏi thăm cô thêm về đời sống của người dân ở đây. Một ký nghêu nhỏ bán lẻ được 3500, bán sỉ cho KDL hay quán ăn thì được 2500. Nghêu lớn thì thêm được 1000/kg. Và một ngày, một gia đình 4 người cào được khoảng 12-15 kg. Vậy mà, chỉ cách đó một đầm nước, mỗi ngày một du khách tiêu năm, ba trăm ngàn là chuyện thường! Chắc chẳng cần bình luận gì thêm!
Chạy xe trên cát có một nguyên tắc là phải giữ tốc độ cho thật đều. Bất cứ khi nào bạn tăng, giảm ga đột ngột cũng sẽ làm xe mất thăng bằng và lăn quay ra ngay. Phải mất mấy lần hì hụi dựng xe lại, phủi cát bám đầy người tôi mới thực hành thuần thục nguyên lý ấy. Xe chạy ngang 1 bãi cào kiểu “ly tâm” thì một cô trong bãi nửa đùa nửa thật kêu to: “Chụp giùm tui 1 tấm mấy chú ơi!” để rồi hốt hoảng khi chúng tôi dừng xe lại thật. Cô ngại ngùng phân trần: “Chời, nói chơi mà chú chụp thiệt! Thôi, chú chụp giùm 2 bà già này đi! Để lỡ hai bả có gì còn có tấm hình”. Hai bà cụ dễ chừng cũng đã khoảng 60 hơn khẽ rầy cô nhưng cũng vội vàng sửa lại mái tóc đã bạc, rồi không dám nhìn lên, cứ cắm cúi cào mãi 1 chỗ. Chụp xong mấy tấm cho hai bà, tôi hỏi xin địa chỉ để có thể gởi lại nhưng…”Chời, tui cũng hổng nhớ địa chỉ nữa, mà ở chỗ mình có số nhà hông mày?”. Cả ba người bàn bạc một hồi rồi than: “Thôi, cám ơn chú, khổ quá chú ơi, có khi nào xài tới ba cái số nhà này đâu!”. Tôi và thằng bạn nghẹn lời, đành đi tiếp mà cứ nghĩ mãi về họ, về nụ cười hồn hậu thoáng chút buồn, về bàn tay vẫy thân tình khi chúng tôi đã đi xa… Cứ thế, trái hẳn với cuộc sống có thể tạm gọi là sang trọng trong khu resort, chúng tôi liên tục bắt gặp những mảnh đời vất vả trên bãi biển. Chỉ lướt qua thôi nhưng đọng lại trong tôi mãi! Để thấy mình vẫn còn may mắn thế mà đôi khi cứ tự vất vả đi về….
Đã gần trưa, nước biển bắt đầu lên cao. Cát mềm hơn và chúng tôi ngã xe nhiều hơn. Quay xe về, hai đứa im lặng theo đuổi suy nghĩ riêng của mình….
Sau buổi trưa ngon lành, chúng tôi chia tay KDL Lộc An. Đường về thành phố có hai ngả. Ngả ra thẳng thị xã Bà Rịa thì gần. Tuy nhiên, chúng tôi chọn đi vòng qua Long Hải. Đi đường này, một lần nữa chúng tôi sẽ đi dọc bờ biển, qua Phước Hải, Long Hải vốn là cung đường có nhiều bãi biển đẹp và nhiều địa điểm tham quan thú vị như Chiến khu Minh Đạm, chùa Khỉ, .. và đặc biệt là một con đường hoa đào. Vào mùa cuối năm như thế này, hoa đào sẽ nở rộ suốt dọc hai bên đường như trong một lần tình cờ tôi đi lạc đến đây và nhớ mãi. Tuy nhiên, càng đi tôi càng bối rối không biết mình có nhầm lẫn gì hay không khi hoa đào chỉ còn lác đác dọc hai bên một đoạn đường ngắn. Thầm nhủ rằng chắc mình chưa đi đến, rằng đây chỉ là đoạn đầu của con đường để rồi xe qua đèo Nước Ngọt và tôi bàng hoàng nhận ra rằng con đường hoa đào đã mất. Gió đông vẫn đây mà hoa đào năm ngoái nơi đâu? Tình này, cảnh này, ai thảm hơn ai?
Bần thần như thế mà tôi cho xe vượt qua đèo Nước Ngọt và quên cả chụp hình. Nếu bạn lần đầu đến Phước Hải chắc hẳn bạn cũng sẽ bất ngờ khi đi qua con đèo này. Con đường đèo vòng ra sát biển và khi bạn vừa qua khúc quanh thì bất ngờ một cảnh quan rất tuyệt hiện ra. Một bên, biển rầm rì trong nắng; một bên, núi sừng sững trước gió. Còn nhớ lần đầu tiên đi qua đây, tôi đã cực kỳ phấn khích hét lên một tiếng thật lớn để thấy tất cả nỗi niềm theo nó bay tít lên trời.
Thị xã Bà Rịa là điểm dừng chân cuối cùng. Đi ngang đây đã rất nhiều lần, tôi đặc biệt chú ý đến nhà thờ Bà Rịa và di tích Nhà Tròn. Nằm ngay trung tâm thị xã, nhà thờ Bà Rịa mang một vẻ cổ kính kỳ lạ dù cho người ta đã khoác cho nó một bộ áo mới hơi rực rỡ một chút. Không có thông tin về ngôi nhà thờ này nhưng theo con số trên cánh cổng của nó thì nó đã được xây dựng vào năm 1879 có nghĩa là trước Vương cung Thánh đường cả 1 năm. Cách đó không xa là di tích Nhà Tròn ban đầu vốn là một tháp nước cao 20m nhưng đã trở thành một trung tâm chính trị của Bà Rịa suốt cả trăm năm qua suốt các thời Pháp, Mỹ, Cộng hoà và cả Cách mạng. Bao nhiêu người đã chết ở đây nhất là những đặc công rừng Sác trúng trái khi cố gắng phá huỷ cầu Bà Rịa nhằm cắt đường tiếp tế của Sài Gòn bảo vệ từ xa cho Chiến khu Minh Đạm ở phía trong. Một thoáng kinh hoàng vụt qua trên khuôn mặt của bác chủ quán sâm bổ lượng khi kể cho tôi nghe về những ngày tháng đó.
Rời thị xã Bà Rịa, con đường 25B qua phà giúp chúng tôi đi gần hơn khoảng 20 cây số. Đúng 18:18, ngồi trong tiệm phở trên đường Trần Quang Khải, hai đứa khoái chí nâng ly rau má kết thúc thành công chuyến đi từ năm ngoái sang tận năm nay. Và trời ơi, phở Sài Gòn ngon không thể tưởng tượng nổi….
Cám ơn anh Hậu và Meg!
Thursday, January 26, 2006
60 - III
PHAN THIẾT – KHE GÀ - LAGI: ĐƯỜNG VEN BIỂN, CHỌC TRỜI KHUẤY NƯỚC TẮM BÙN…HỤT VÀ LẠC ĐƯỜNG
Nhóm bạn vừa đi chuyến xe đêm từ Saigon ra Phan Thiết đang nằm nghỉ la liệt. Chúng tôi quyết định nhập bọn với họ để cùng ra hải đăng Khe Gà. Sau khi dành thời gian cho chị em phụ nữ chuẩn bị thật kỹ càng, chúng tôi gồm 5 xe bắt đầu lên đường (nói thì nhanh vậy chứ ngồi nhìn chị em vốn tâm niệm đi biển phải diện quần áo thật ngắn và thật mát tỉ mỉ chấm từng chút kem chống nắng lên tất cả các phần da thịt có thể chịu tác động của sunlight mới hiểu như thế nào là “thời gian đứng yên lắng đọng”).
Để ra Hải đăng Khe Gà có hai con đường: một là, đường Đồi Sứ đi thẳng từ Phan Thiết và hai là đi vòng ra đường Quốc lộ rồi rẽ vào lại đường ven biển. Dù đã dự định đi đường Đồi Sứ nhưng với bản đồ do KDL Đồi Sứ cung cấp và khả năng tìm đường của tôi thì cuối cùng cả đoàn trôi dạt ra tới Quốc lộ và đi xa thêm gần 15km. Tuy nhiên, bù lại, bên cạnh con đường ven biển chúng tôi còn được biết thêm con đường nhựa đi xuyên qua những khu dân cư, những rừng cây mới trồng và những đồi cát trắng (trắng thật sự vì ở Phan Thiết các đồi cát có rất nhiếu màu). Và ở cuối con đường, biển đột ngột mở ra, bao la và xanh ngăn ngắt trong ánh nắng rực rỡ. Một chiếc cầu bắc ngang qua cửa con sông đang cạn nước trơ đáy dẫn ra biển. Lòng sông bây giờ chỉ còn lại những vệt cát trắng xám lấp lóa nước. Chúng tôi đứng trên mép đường cao khoảng 10m thi nhau chụp hình. Bên kia bờ, một căn nhà nhỏ xíu bên cạnh khu vườn xanh rì lá chuối lặng lẽ nhìn sang một lũ nhóc gần 25 tuổi đang nhí nhố và điệu đàng làm dáng trước ống kính.
Bắt đầu đi theo con đường ven biển đến Hải đăng mới thấy hết sức sống mới đang cuồn cuộn chảy nơi đây. Chưa được như đoạn đường đi Hòn Rơm vì ngoài 1 vài khu resort đã hoàn chỉnh và đón khách như Đồi Sứ, Vườn Đá,..thì hầu hết các khu còn lại vẫn đang xây dựng dang dở với ngổn ngang gạch, ngói, gỗ, đá khắp nơi. Các khu resort ở đây có lẽ đã rút được nhiều bài học từ những khu trước đó nên kiến trúc và quy mô có vẻ hơn hẳn. Hầu hết đều nằm vắt ngang qua con đường đã trải nhựa thẳng tắp và đang được gia cố thêm để tránh sự xâm lấn của cát. Tiêu biểu như KDL Vườn Đá. Đi từ xa đã có thể nhìn thấy những ngôi nhà nghỉ xây dựng theo kiểu nhà sàn với mái cao vút tựa lưng vào vách đá nhìn ra biển. Bên kia đường, đối diện với khu nhà nghỉ là hàng loạt những công trình khác như hồ bơi, suối, hồ tắm bùn được xậy dựng hoà vào cảnh quan thiên nhiên xung quanh đã khiến nơi đây trở thành một địa điểm nổi tiếng bậc nhất của khu vực này. Tuy nhiên, với kiểu mạnh ai nấy làm và không có quy hoạch chung như hiện nay, rất có thể sau khi định hình, con đường này sẽ là một tổng thể cực kỳ bát nháo khi thấp thoáng đây đó đã thấy nào là Tây, là Tàu, là Việt với đầy đủ gạch, ngói, gỗ, đá, kim loại, kiếng màu, inox,…
Hải đăng Khe Gà hiện ra từ xa nhỏ hơn “Trương Phi” của tôi rất nhiều. Rõ ràng trí tưởng tượng của tôi đã đi quá xa khi khoác lên cho ngọn đèn biển ngoài kia đầy dẫy những uy vũ, những oai phong lẫm liệt, những sóng gào vách đá, núi dựng thành đồng. Khe Gà dưới nắng biển chói chang ban trưa trông hiền lành và lẻ loi đến tội nghiệp. Chúng tôi dừng xe và tìm đường vào ra Hải đăng thì được cho biết: vì lý do bảo vệ an toàn cho du khách, bộ đội biên phòng không cho phép qua đảo tham quan. Em bé đang ngồi chơi trước nhà nơi chúng tôi gởi nhờ xe tiết lộ:” Tại người ta không chịu đóng thuế cho mấy ổng nên mấy ổng cấm, mai mốt, mấy KDL xây xong thì họ sẽ được chở khách”. Chúng tôi hoàn toàn thất vọng vì công sức bỏ ra sáng giờ coi như đổ hết xuống biển bởi bây giờ chẳng biết đi đâu. Nhìn bộ mặt thê thảm của chúng tôi, em bé gợi ý cho chúng tôi ra chơi bờ đá, nơi đó có thể nhìn sang hải đăng. Thôi thì cũng đã lỡ đến đây, cả bọn lếch thếch kéo nhau ra biển. Biển ở làng chài thì lại không thể tắm được. Trên bờ biển, trẻ em nghịch cát trong khi những người phụ nữ làng chài túm tụm lại với nhau chờ thuyền cá về để thu mua và đem bán lại. Ngoài khơi, nhiều tàu đánh cá loại nhỏ đang neo bờ. Những chiếc tàu này chỉ đánh bắt gần bờ dùng thuyền thúng để chở cá, tôm đánh bắt được vào bán cho những người phụ nữ luôn túc trực sẵn sàng. Mỗi khi có một chiếc thuyền thúng nào bơi từ biển vào là họ lại nhao nhao cả lên. Một cái chợ chồm hổm nhanh như cắt hình thành để tiêu thụ mớ cá, tôm ít xịu. Nhìn họ tranh nhau lựa, trả giá, tôi chợt nhớ đến Oshin khi cô này đi bán cá dạo. Cũng phải chầu chực, rồi giành giật, rồi khư khư ôm rổ hàng của mình đi bán cắc củm từng đồng, từng cắc nuôi chồng, nuôi con. Nhưng được bao nhiêu người sẽ trở thành triệu phú vào cuối đời như Oshin? Hay những khuôn mặt xạm đen nắng gió này suốt đời sẽ mãi quanh quẩn lúc thì bên những chợ cá chồm hổm trên bãi biển, lúc thì bên tấm lưới đã thủng lỗ chỗ mà vẫn phải cố vá víu lại cho chồng, con có cái để ngày mai lao mình vào biển?
Biết chúng tôi muốn qua đảo, các em nhỏ đang chơi trên bãi biển chỉ cho chúng tôi vào một căn nhà gần đó thuê người chở ra biển. Với vẻ mặt rất bất cần đời, một anh chàng vừa từ biển về ra giá 200.000 cho một chuyến đi-về 10 người. Thấy chúng tôi ngần ngừ, anh chàng nói tỉnh rụi: “ Mới về mệt thấy bà, không đi thì thôi chứ tui đi biển một chuyến 400,500 dễ ẹt”. Hic, điệu này thì thu nhập của bà con ở đây cao gấp mấy lần nhân viên tín dụng ở Ngân hàng hay Công ty Cho thuê tài chính còn gì. Cuối cùng thì “qua đảo phải luỵ thuyền thúng”, cả bọn hồi hộp trèo vào cái thúng chòng chành trước sóng trong khi anh chàng chèo thuyền liên tục hối chúng tôi nhanh chân kẻo biên phòng họ bắt lại. Nghe cứ như đang ở trong “đêm chôn dầu vượt biển”….
“Hải trình” ra đảo có 1 lần “sang ghe”. Chúng tôi phải đi thuyền thứng ra ghe, rồi mới đi bằng ghe ra đảo. Cảm giác hồi hộp ban đầu nhanh chóng biến mất thay vào đó là sự thích thú khi cả bọn nhận ra mình đang lênh đênh giữa một vùng trời biển bao la. Biển xanh, sóng êm, trời trong đã khiến các photographer và model phải làm việc liên tục. Nghiêng phải, nghiêng trái, cười mỉm, cười toe, choàng vai, bá cổ, ôm nhau, ….chẳng còn thấy đâu nữa vẻ lo lắng khi lập cập chui vào thúng. Lên tới ghe, cảm thấy an toàn hơn trên thúng, tinh thần làm dáng chụp hình của bà con lại càng phát huy dù 10 đứa phải chen chúc nhau trong lòng chiếc ghe bé tí.
Hải đăng huyền thoại của tôi đang ở rất gần.. Ghe cập đảo, cả bọn hì hục leo lên bờ và ngay lập tức vỡ oà ra những tiếng xuýt xoa khi trước mắt chúng tôi là những tảng đá lớn tạo thành vô số những hình thù sinh động. Bãi đá ở đây và cả hòn đảo nhỏ này là phần vươn ra biển của một bãi đá trên bờ, bởi thế, trong những ngày nước cạn, người ta có thể lội ra đảo rất dễ dàng. Hải Ðăng Khe gà do một kỹ sư người Pháp tên là Chnavat thiết kế, xây dựng để hướng dẫn tàu thuyền qua lại, khởi công từ tháng 2 năm 1897, đến cuối năm 1898 mới khánh thành. Ngay trên cửa vào hải đăng có một tấm đá hoa cương lớn khắc số 1899. Hải Ðăng Khe gà chính thức hoạt dộng năm 1900. Trong lịch sử hàng hải ở khu vực này, các thế hệ trước có rất nhiều thuyền buôn qua lại bị đắm do không xác định được toạ độ, vị trí và Mũi Khe gà (còn gọ là mũi Điện) được coi là một vị trí cực kỳ hiểm yếu của vùng biển từ Phan Rang đi Vũng Tàu. Do vị trí hiểm yếu của vùng biển này, và để đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng của quân đội Pháp cũng như tàu buôn của nước ngoài qua đây, người Pháp đã nghiên cứu cho xây dựng ngọn Hải Ðăng Khe gà. Trong thời gian xây dựng rất nhiều người chết do tai nạn, hiện nay ở đây vẫn còn nghĩa địa chôn những người chết vì công trình này.
Trên đảo ngọn Hải đăng được xây dựng tương đối đồ sộ, có lẽ đây là ngọn Hải đăng cao nhất trong nước, xây bằng đá hoa cương, hình bát giác. Ðá hoa cương xây ở Hải Ðăng Khe gà, chưa biết người Pháp đưa từ đâu đến vì trong khu vực không có loại đá này. Và không phải chỉ là những viên đá bình thường có 4 góc mà tất cả những khối đá hoa cương dùng xây Hải Ðăng đều đã được chạm, khắc thành từng ô, từng hình cạnh cụ thể, khớp với nhau. Nghĩa là gần như có sẵn một ngọn tháp bằng đá đã được làm sẵn, khi xây chỉ cần lắp đặt vào đúng thứ tự, góc cạnh từ dưới lên trên và chỉ cần đưa vữa vào là kết dính lại, không cần phải tô, trét sửa chữa. Tháp đèn xây bằng đá cao 35m, độ cao toàn bộ từ ngọn đền đến mặt biển 65m. Kích thước cạnh của tháp (chân tháp) 2,60m, chiều dày tường tháp từ chân tháp đến độ cao 6m là 1,6m, càng lên cao độ dày càng giảm từ 1,50m và mỏng nhất ở đỉnh tháp là 1m. Trên ngọn tháp có bóng đèn lớn 2000 W làm tín hiệu hướng dẫn tàu bè qua lại. Cả đèn và máy phát điện đều được đưa từ Pháp sang. Xung quang ngọn Hải đăng, người Pháp đã trồng rất nhiều sứ trắng mà đến nay vẫn còn nguyên, nở hoa trắng muốt.
Theo tài liệu, ngoài ngọn Hải Ðăng còn có một căn nhà lớn hình vuông mỗi cạnh 40m, dưới nhà là một hầm chứa nước sâu 3m, trước nhà có một giếng gọi là giếng Tiên. Tuy nhiên chúng tôi tìm mãi mà chẳng thấy giếng đâu cả. Có lẽ thời thế thay đổi nên khi thấy cả một lũ quỷ đến thì Tiên đành rút lui trong trật tự chăng? Sau khi đóng 30.000 cái gọi là phí tham quan, chúng tôi được các anh bộ đội giao hẳn cho chìa khoá để lên hải đăng tham quan. 184 bậc cầu thang làm bằng thép dẫn chúng tôi lên đến đỉnh tháp để rồi khi bước ra khỏi cánh cửa cũ kỹ, thì cả một không gian rộng lớn như nuốt chửng lấy cả bọn. Trên đỉnh hải đăng gió lồng lộng thổi. Tầm nhìn được mở ra rất rộng. Bên kia là bãi biển Thuận Quý trải dài mượt mà. Bên này là biển mênh mông vô cùng. Bầu trời cao rộng bao la. Cả hòn đảo trở nên nhỏ xíu. Theo một chiếc thang sắt đứng chúng tôi leo lên tầng cao nhất của hải đăng. Cảm giác cực kỳ phấn khích khi lòng bàn chân bạn chạm vào các thanh ngang lạnh ngắt của thang trong cảm nhận rất rõ ràng từng cơn gió thổi sàn sạt qua người mình. Tự nhiên thấy ê ê trong lòng. Nhưng cảm giác đó cũng chẳng thấm vào đâu so với khi bạn thật sự đặt chân lên tầng cao nhất. Chỉ lên cao thêm khoảng 2m mà gió trên đây đột ngột trở nên dữ dội bất ngờ. Thôi thì tha hồ tóc bay, áo bay, thậm chí hai ống quần cũng thi nhau phần phật, phần phật. Thân hình vốn đã mảnh như lá lúa của tôi cứ như sắp bị thổi vèo ra xa và rơi thẳng xuống mặt biển xanh ngăn ngắt dưới kia. Gió biển mang theo muối làm cho bàn tay bám vào balcon cứ dấp dính, trơn tuột. Ôi Trương Phi của ấu thơ tôi! Chọc trời khuấy nước! Tưởng như chỉ một tiếng gầm mà sóng phải lặng, gió phải ngừng, chuyển nguy thành an cho cả một dải đất mong manh đằng sau lưng nó!
Cho đến khi chiếc ghe nổ máy rời khỏi đảo, tôi đã kịp nuôi thêm mơ ước mới: buổi bình minh lặng lẽ và ấm áp trên đỉnh ngọn Hải đăng đầy gió….
Lúc này thì cơn đói bằt đầu hành hạ mọi người. Theo kế hoạch chúng tôi sẽ ăn trưa và tắm bùn tại Vườn Đá resort nhưng tất cả những gì chúng tôi nhận được là vẻ kiêu hãnh không dấu diếm của nhân viên nơi đây khi họ từ chối cung cấp dịch vụ với lý do là chúng tôi không đặt trước. Theo lời của nhân viên nơi đây, để có thể sử dụng dịch vụ của họ, chúng tôi cần đặt trước…………1 tháng. Cả bọn ngậm ngùi ra xe trong cơn đói dày vò và niềm tiếc nuối vô hạn (?) vì đã trót nhìn thấy hồ bơi xanh ngắt của khu resort cùng những con đường xinh xắn lẩn khuất dưới đám cây là xanh um. Lại quăng xác ra con đường đấy nắng mà trong cơn đói đã bớt đẹp đi ít nhiều, cuối cùng, chúng tôi cũng tìm được chỗ ăn nhưng kế hoạch tắm bùn đã tan tành mây khói!
Sau bữa ăn, chúng tôi chia tay với nhóm bạn và tiếp tục lên đường. Con đường từ Hải đăng về tới Bà Rịa-Vũng Tàu dài khoảng 90km rất tốt. Hai bên đường dân cư thưa thớt nằm lẫn trong các đồi cát, ruộng muối. Thỉnh thoảng lại có mấy vuông ruộng lúa xanh nhức mắt. Dọc con đường này có hai địa điểm tham quan đáng chú ý nhưng vì thời gian không cho phép nên chúng tôi phải bỏ qua đó là: nhà máy sản xuất titan từ cát biển và Hòn Bà. Nếu đi vào nhà máy titan thì sau đó, tuỳ theo điều kiện, nếu nước biển rút ra xa thì có thể chạy xe gắn máy dọc theo bờ biển xuống tận Lagi - thị trấn cách hải đăng khoảng 40km. Còn Hòn Bà là một ngọn núi trẻ nhô lên giữa biển, vào đầu thế kỷ 17, người Chăm đã xây dựng tại nơi đây một ngôi đền thờ nữ thần Thiên Y Ana. Trong kháng chiến chống Pháp, ngườI Pháp đã cấm nhân dân ra đảo dẫn đến hoang phế, đổ nát và bức tượng thần tạc bằng đá nguyên đã bị đánh cắp. Mãi đến gần đây, ngư dân Hàm Tân mới xây dựng lại ngôi đền và tiến hàng thờ tự như cũ.
Khi chúng tôi đến địa phận Bà Rịa là đã xế chiều. Xe qua một ngã ba rất gợi nhớ đến ngã ba ở chân đèo Dran, một thì rẽ vào KDL sinh thái Bình Châu, một đi tiếp vào Bà Rịa. Hai bên đường là rừng cây um tùm phả hơi lạnh của buổi chiều. Rồi thì các cụm dân cư cũng dần hiện ra. Những căn nhà nhỏ bé lẫn trong vườn cây. Những đứa trẻ chơi đùa trước sân. Những bà mẹ với chút thảnh thơi cuối ngày, bắc chiếc ghế nhỏ ra hiên trước trao đổi với nhau dăm ba câu chuyện vãn. Giản dị mà đẹp lạ lung, cái đẹp của một ngày đã cũ…
Hai đứa theo lời hướng dẫn của ngườI dân cứ chạy mãi mà vẫn chưa thấy KDL Lộc An. Sóng điện thoại khi có khi không. Đường vắng ngắt, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy ngang qua thật nhanh. Và rồi thì bóng tối nuốt chửng chúng tôi nhanh như chớp. Không liên lạc được vớI KDL mà cứ mỗi khi chúng tôi cố gắng dừng xe của những người đi đường lại hỏi thì lại nhận được những hướng dẫn hoàn toàn khác nhau. Bắt đầu lo và bối rối. Quay ra đường cái hay chạy tiếp? Cuối cùng thì quyết định liều, tiếp tục con đường mình đang đi. Những con thiêu thân thấy ánh sáng đèn cứ bay ào ào vào chúng tôi. Hai đứa cắm cúi chạy trong bóng tối. Rồi đột nhiên qua một khúc quanh, chúng tôi mừng rỡ khi thấy từ xa có ánh sáng đèn điện. Và KDL Lộc An đón chúng tôi thật nồng nhiệt với nụ cười và giọng nói thân thiện của cô tiếp tân cùng tiếng piano văng vẳng…Thở phào như về đến nhà!
Tuesday, January 10, 2006
60 - II
Rời KDL Núi Takou, chúng tôi tiếp tục chạy về Phan Thiết.Hai bên đường là những vườn thanh long bạt ngàn. Có những khu vườn vừa thu hoạch chỉ còn trơ lại những cành thanh long, có những khu vườn đang ra hoa, kết quả…Thanh long bây giờ là một thứ trái cây xuất khẩu được người nước ngoài ưa chuộng nhưng cá nhân tôi không thể ưa nổi loại trái cây này. Tuy vậy, đứng trước những vườn thanh long đang trổ hoa lộng lẫy hay kết những quả hồng tươi lấp ló trong lá thì thật không thể không thừa nhận vẻ đẹp của chúng. Đó cũng là lý do chỉ 30km từ Takou đến Phan Thiết mà tôi đi thật lâu và tiêu tốn cả mấy MB của thẻ nhớ cho thanh long.
Sau khi check in ở Phan Thiết chúng tôi đi tìm chỗ ăn trưa. Lựa chọn đầu tiên là bánh hỏi lòng heo ở Phú Long cách Phan Thiết khoảng 6km về phía Bắc. Tuy nhiên, đây lại là món ăn sáng của ngườI dân ở đây nên tới thời điểm đó chẳng còn quán nào có bán.Đang ở gần Tháp Chăm Pôshanư nên tôi quyết định sẽ đến đó luôn hy vọng sẽ có quán ăn phù hợp ở dọc đường. Thê thảm là suốt dọc đường ven biển đó toàn resort, thế là chúng tôi đành ôm bụng đói leo lên Tháp Chăm.
Nhóm đền tháp Chăm Pôshanư tọa lạc trên đồi Bà Nài thuộc xã Phú Hải về phía Đông Bắc cách thành phố Phan Thiết chứng 7km được người Chăm xây dựng từ những cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hoà Lai - một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Vương quốc Chămpa và còn tương đối nguyên vẹn. Nhóm tháp gồm có 3 tháp : Tháp chính A hơi chếch về phía Nam, hai tháp phụ là B hơi nhếch về phiá Bắc và C chếch về hướng Đông cạnh tháp A thờ thần Siva biểu hiện bằng bệ thờ Linga-Yôni bằng đá hiện còn lưu giữ tại tháp chính.Đến thế kỷ XV người Chăm tiếp tục xây dựng một số đền thờ dạng kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Pôshanư, tương truyền là con vua ParaChanh được nhân dân yêu quý về tài đức và phép ứng xử của Bà đối với người Chăm đương thời. Những cuộc khai quật khảo cổ học từ 1992-1995 đã phát hiện nhiền nền móng của những ngôi đền bị sụp đổ và bị vùi lấp hàng trăm năm nay, cùng với gạch ngói và một số hiện vật trong lòng các đền tháp có niên đại từ thế kỷ XV. Từ đây tháp có tên gọi là Pôshanư. Pôshanư là nhòm đền tháp Chăm có vai trò quan trọng trong số các di tích kiến trúc Chăm ở Bình Thuận, từ hình dạng kiến trúc đến kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật trên thân tháp, các vòm cuốn, các cửa chính, cửa giả, trong lòng và lên đến đỉnh tháp. Riêng kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật còn lại ở thân Tháp đủ gợi lên yếu tố thẩm mỹ khá riêng biệt của phong cách Hoà Lai. Tháp chính A từ trong lòng tháp lên đến Đỉnh 15 m, cạnh đáy mỗi bề gần 20m, một cửa chính dài, hướng về phía đông mà theo truyền thuyết Chăm là nơi cư ngụ của thần linh, nơi sự sống sinh sôi. Có 3 cửa giá ở những hướng Bắc, Tây, Nam. Trên vòm cuốn ở hướng Tây hiện còn những dãy chạm khắc dày đặc với những bông hoa và hình tượng kỳ lạ. Tháp có 4 tầng càng lên cao càng thu nhỏ lại và bớt đi những yếu tố kiến trúc của tầng dưới. Trên đỉnh tháp có 4 cửa sổ hình tam giác hướng về 4 phía, bên ngoài xây bít kín, dưới mỗi cửa sổ gạch có 4 lỗ lớn để thông gió ra ngoài. Tháp B nằm riêng nhích về hướng Bắc cao khoảng 12m, về cơ bản hình dáng kiến trúc giống tháp A nhưng đơn giản hơn. Trước đây trong tháp có thờ con bò thần Namdin nhưng sau đó không thấy nữa . Năm 1995 lúc khai quật dưới lòng đất đã tìm thấy 1 bàn chân và 1 tai bò thần bằng đá. Tháp C hiện chỉ còn lại với 1 chiều cao hơn 4m, duy nhất 1 cửa trổ về hướng Đông những kiến trúc và trang trí nghệ thuật bên ngoài đã bị thời gian bào mòn chỉ còn lại một số đường nét gốc. So với những tháp Chăm khác, đến nay di tích này hàng năm vẫn có đông đảo người Chăm từ các vùng lân cận đến làm lễ cầu mưa và những nghi lễ khác liên quan đến phong tục tập quán của họ,. Một điều khá lý thú nữa là đối với ngư dân những vùng lân cận trước khi đi biển cũng đến đây cầu xin cho những chuyến đi biển được bình yên. Không phải là lần đầu đến đây, cũng chắng có “mưa bay tháp cổ” nhưng tôi vẫn cứ “muốn nghiêng ngả”. Từng viên gạch, cây cột, cửa chính, cửa giả đều khiến tôi thích thú. Thế là có thêm một màn múa Chăm “đáng nhớ” làm tiêu tốn mất tương đối nhiều thời gian và phim ảnh!
Cách tháp chừng 50m là Lâu Ông Hoàng nổi tiếng gắn với tên tuổi Hàn Mặc Tử. Toà Biệt thự của ông hoàng Pháp De Montpensier rộng 536m2 với 13 phòng được xây dựng vào năm 1911 hiện đại và tiện nghi vào bậc nhất ở Phan Thiết lúc bấy giờ nay chỉ còn trơ trọi một lô cốt do Pháp xây dựng để kiểm soát Phan Thiết và hệ thống hầm chứa nước mưa để dùng. So với di tích tháp Chăm ngay gần đó, dù tuổi đời ngắn hơn nhưng nó còn thê thảm hơn rất nhiều. Nhưng có lẽ chính vì điều đó cùng với những huyền thoại liên quan đến Hàn Mặc Tử đã luôn khiến du khách phải dừng chân tại đây để rồi ngậm ngùi trước sự tàn phá khủng khiếp của thời gian, của con người…
Điểm tham quan này là địa điểm xa nhất trong chuyến đi của chúng tôi. Rời khu vực Tháp Chăm và Lầu Ông Hoàng chúng tôi theo con đường dọc bờ biển để về lại nội thị Phan Thiết. Không hổ danh là thành phố của các resort, dọc theo con đường hầu như toàn là các resort chen vai thích cách với nhau. Nếu tiếp tục đi theo con đường này để ra Hòn Rơm, Mũi Né thì du khách còn choáng ngợp hơn nữa trước sự thống trị của các resort nơi đây. Resort bên bờ biển Phan Thiết đã mang lại cho khu vực này một hình ảnh mới nhưng sự phát triển ồ ạt của chúng mà không có một quy hoạch tổng thể cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến cảnh quan chung.
Hai điểm đến tiếp theo của chúng tôi (mà thật ra chỉ là của tôi vi thằng bạn đi cùng có vẻ chẳng hào hứng mấy) là hai ngôi chùa nổi tiếng của Phan Thiết: chùa Ông và chùa Phật Quang. Sau khi ních căng bụng tô mì Quảng ngọt như chè ở chợ trung tâm (thật lạ lùng bởi cũng là một xứ nước mắm nhưng khẩu vị của người dân Phan Thiết rất ngọt), chúng tôi vào thăm chùa Ông cách đó chỉ một ngã tư. Chùa ông là ngôi chùa cổ nhất và có quy mô lớn nhất của người Hoa ở Bình Thuận, theo tài liệu trong thần phả của chùa và niên đại khắc ghi bằng dòng chữ Hán trên thanh xà cồ nóc chính diện “Thiên kiến Canh Dần niên trọng đông kiết tạo” ( chùa được thiết lập vào tháng 11 năm Canh Dần 1770)
Tổng thể kiến trúc ở đây từ ngày khởi tạo là một ngôi miếu lớn của người Hoa xây dựng để thờ Quan Công (Quan Thánh đế quân). Ngay trước cổng vào chùa hiện nay còn tấm biển ghi “Quan Thánh miếu”. Nằm trên một diện tích khá lớn, chùa có lối kiến trúc và trang trí nghệ thuật đặc trưng của người Hoa, các dãy nhà nối tiếp nhau tạo nên hình chữ Kim. Hệ thống cột, vĩ kèo chạm khắc rất công phu, sắc nét. Tất cả những cột chính đều có treo câu đối chạm khắc v à sơn son thếp vàng lộng lẫy. Nổi lên ở các gian thờ là những bức tranh chạm gỗ, gắn tường mà nội dung miêu tả các điển tích xưa của người Hoa, có niên đại ở thế k ỷ XVIII. Nhiều bức hoành lớn được chuyển t ừ Trung Hoa qua ở thế k ỷ XIX. Gần 100 bức hoành và liễn đối với các loại có nhiều kích thước khác nhau treo đầy chính điện và nhà thờ tiền hiền. Đặc biệt là những bức hoành phi đại tự sắc nét với đủ màu sắc. Tượng Quan Công to lớn bằng gỗ đặt trang trọng ở gian thờ chính điện cùng hàng chục những pho tượng cổ khác. Một điều kỳ lạ là ở gian bên phải của chùa là gian thờ Thiên Hậu và các bà mụ. Dọc theo hai bên chính điện của gian này là tượng của các bà mụ trông rất xưa và đẹp.
Chùa Ông hiện nay còn lưu giữ nhiều chiếc chuông cổ có giá trị về lịch sử và nghệ thuật, đúc tại Quảng Đông, Trung Hoa và chuyển sang từ triều đại Nhà Thanh. Kiểu cách đúc và vật liệu giống Đại hồng chung của người Việt nhưng trang trí phức tạp hơn và rườm rà hơn trên thân chuông. Người dân Phan Thiết có một tục lệ là chui đầu vào chuông để một cụ già giữ chùa điểm 12 tiếng chuông. Theo lời cụ, làm như thế là để ông, bà nâng giữ cái đầu cho mình, giúp mình được tai qua nạn khỏi trong suốt 12 tháng của năm. Tôi cũng xin phép cụ để được chui vào chuông và cầu mong Đức Quan Thánh Đế sẽ nâng giữ giùm tôi cái đầu, cho nó được bình yên…. Còn muốn hỏi thăm cụ thêm nhiều nữa nhưng hàng người chờ được điểm chuông ngày càng dài nên tôi đành cám ơn cụ và ra về.
Chúng tôi tiếp tục đến chùa Phật Quang được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, tọa lạc ở phường Hưng Long, thành phố Phan Thiết. Vị trí của ngôi chùa vào thời điểm xây dựng dân cư thưa thớt, bao quanh là những đồi cát mênh mông chạy dài ra biển nên trong dân gian cũng có tên gọi là Chùa Cát. Và thật ra người dân Phan Thiết cũng chủ yếu biết đến nó với tên gọi là Chùa Cát. Bằng chứng là khi chúng tôi hỏi đường đến chùa Phật Quang thì hầu như không ai biết, thậm chí có người còn tận tình dẫn chúng tôi đến chùa Phật……Học, nhưng hỏi chùa Cát thì ai cũng biết ngay.
Điểm đặc biệt quan trọng trong ngôi chùa cổ này là các di sản văn hoá có giá trị. Đó là chiếc Đại hồng chung lớn đúc bằng đồng chạm khắc đẹp, tinh tế và 4 mặt chuông khắc địa danh, lịch sử chùa cũng như niên đại, chuông được đúc vào năm Canh Ngọ 1750 dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Một số hiện vật khác là những bản khắc gỗ tạo nên bộ kinh pháp hoa với 118 bản. Đa phần trong 118 bản khắc bằng gỗ thị khắc cả 2 mặt bằng chữ Hán sắc nét bao gồm 60 vạn lời, trong đó có 7 bản khắc hoạ hình ảnh Đức Phật thuyết pháp. Bộ kinh Pháp Hoa hoàn thành vào năm 1734 mà bản cuối cùng trong 118 bản khắc “ Long Đức Tam niên tuế thứ giáp dần tứ nguyệt sơ nhất nhật” , tức là hoàn thành vào ngày mùng một tháng tư năm Long Đức thứ ba ( giáp dần 1734). Long Đức là hiệu của vua Lê Thuần Tông đời hậu Lê lên ngôi 1732. Bộ kinh do hai khất sĩ Ninh Dung và khất sĩ Thiết Huệ hiệu là Khánh tài chủ trương xin phép khắc. Cũng trong bản khắc cuối cùng của bộ kinh ghi công của 6 người đứng ra quyên góp và cúng tiền , người đứng ra in, nhiều người cúng gạo cơm và ghi cả công của 2 vị thiền sư cùng 12 Phật tử khắc trong thời gian 28 năm mới hoàn thành bộ kinh này. Mới gần đây vào năm 1987 người ta mới tìm được bộ kinh trong một căn hầm ở chùa. Và cũng chính nhờ bộ kinh này mà Chùa Cát đã ghi tên mình vào 10 k ỷ lục của Phật Giáo Việt Nam là bộ kinh Pháp Hoa khắc gỗ đầy đủ nhất và xưa nh ất. Với bề dày lịch sử và gía trị như thế, thật đáng tiếc là chúng tôi không thể có cơ hội được nhìn tận mắt bộ kinh này. Có đâu một bảo vật như thế mà lại để cho khách thập phương tự do chiêm ngưỡng? Chắc phải có ác tăng Tây Tạng qua đòi mượn thì mới xuất đầu lộ diện để rồi bôn ba chốn giang hồ quá!
Niềm hy vọng còn lại của tôi là chiếc Đại Hồng Chung và cảnh quan của chùa thì hỡi ôi, chiếc Đại Hồng Chung tinh xảo ngày nào nay đã được đưa vào Chánh điện đứng cạnh lùng nhùng những dây điện nhường vị trí của nó trên lầu chuông cho một chiếc khác to hơn, mới hơn và…bình thường hơn do Phật tử phụng cúng để phù hợp với cảnh quan của chùa vừa được tu sửa vào năm 2002 rất mới với sàn lát gạch granite và một vườn tượng thể hiện nhiều tích của nhà Phật rực rỡ nhưng thiếu hẳn sự tinh xảo cần thiết.
Chúng tôi rời chùa Cát và bắt đầu tấn công Phan Thiết bằng một con đường khác – ăn và uống. Ghé vào một hàng ăn nhỏ ở vỉa hè nơi có rất đông các em học sinh và người dân, chúng tôi được Phan Thiết mời chào bằng món gỏi ốc. Ốc voi luộc chín được xắt mỏng trộn cùng với đu đủ, rau răm, hành tây và chút hành phi trên mặt ăn với nước mắm chua ngọt cùng bánh đa vừng vàng rộm. Rồi thì nghêu luộc ngọt lừ. Ốc gạo ăn với nước mắm gừng thơm ngát. Sò lông nướng mỡ hành chấm muối tiêu chanh. Dùng xong có thể gọi thêm ly sinh tố ở hàng bên cạnh mà tất cả chỉ mất khoảng 20.000 cho 1 người. Các cô phục vụ chạy luôn chân mang thức ăn cho khách, đóng gói về, dọn bàn.. và vẫn tươi cười dọn thêm 1 phần gỏi ốc làm mẫu khi tôi ngỏ ý muốn chụp một tấm ảnh. Hy vọng đó thật sự là cung cách phục vụ của họ chứ không phải vì họ đang ngộ nhận tôi là nhà báo (của báo Thể thao Ngày nay chăng?)
Buổi tối, chúng tôi chạy xe dọc theo bờ sông Cà Ty để hóng gió và tìm chỗ ăn tối. Nếu là người mới đến Phan Thiết lần đầu thì lựa chọn an toàn nhất của bạn để có một bữa tối ngon miệng chính là nhà hàng nổi trên sông Cà Ty vốn đã có tiếng từ lâu. Cũng trên con sông này, ban ngày, du khách có thể thuê ghe để đi 1 vòng và có một góc nhìn khác về Phan Thiết với những làng chài, những con thuyền đánh cá và cuộc sống của ngư dân Phan Thiết. Chấp nhận một giải pháp nhiếu rủi ro hơn là ăn bụi, cuối cùng, chúng tôi đã được tưởng thưởng xứng đáng cho quyết định của mình. Một dãy các hàng quán ở dọc bờ sông trông hơi xô bồ nhưng luôn sẵn sàng phục vụ bạn những món hải sản tươi sống nhất với mức giá cả rẻ đến không ngờ. Những miếng cá lồi xối mỗ ngọt thịt với những chiếc vây toàn sụn cuốn bánh tráng. Nhửng con sò huyết, sò điệp nướng ngọt lừ và thơm phức. Sò dương xào satế cay và đậm đà. Sò lụa xốt me chua chua ngọt ngọt. Ghẹ, cua rang muối, hấp bia thật chắc và đầy gạch. Miếng mực một nắng dày, thơm nức mũi. Kêu ra la liệt các món mà chúng tôi vẫn còn muốn ăn thêm dù bụng đă no căng. Tổng cộng cho bữa ăn cực kỳ hoành tráng tính cả tiền bia la 118K. Khỏi phải nói bạn cũng biết là tôi nhiều thiện cảm với chỗ này như thế nào rồi!
Ăn xong, la cà chán chúng tôi chạy ra bờ biển Phan Thiết uống café. So với lần trước tôi đến, dãy quán café ven biển Phan Thiết đã được xây mớ, to và đẹp chẳng kém gì những Vô Thường, Tuấn Ngọc ở thành phố. Ngồi dưới ánh đèn vàng huyền hoặc, bên tai là tiếng sóng biển và đắm mình trong những cơn gió lồng lộng nhấm nháp ly café sữa nóng thật sự đã giúp chúng tôi thư giãn hoàn toàn sau một ngày ngốn hết gần 300km mặt đường. Chỉ tội cho em gái phục vụ, đồng phục là một chiếc váy hơi xòe đã khiến em cứ phải ghì chặt váy xuống trước sự tấn công dữ dội của gió biển và những cặp mắt trong quán…
Thế là “những kẻ cuồng chân” đã bước sang năm mới ở một thành phố lạ trong một trạng thái no nê và thư giãn hiếm thấy. Chờ đền hơn 12 giờ khuya, tôi chìm vào giấc ngủ …
Sáng hôm sau, bằng quyết tâm cao độ, chúng tôi thức dậy lúc 6h30 để đi ăn bánh hỏi lòng heo chia tay Phan Thiết. Con đường ra Phú Long buổi sáng mát rượi và một dãy 3,4 quán bánh hỏi đón chúng tôi trong tình trạng không còn cả chỗ để xe. Rất nhiều xe du lịch đậu kín trước cổng quán. Chúng tôi vào quán và phải mất một lúc mới có chỗ ngồi. Thế mới biết món ăn này của Phan Thiết nổi tiếng tới mức nào. Bánh hỏi lòng heo được dọn lên cho thực khách gồm một dĩa bánh hỏi, một dĩa lòng luộc, rau sống, bánh tráng và nước chấm nóng bốc khói. Miếng bánh hỏi ở đây dày, sợi to và không trắng như ở Saigon. Nước chấm theo phong cách Phan Thiết vẫn cay và ngọt. Nói chung đây là một sự kết hợp táo bạo đã khiến tôi vừa thèm đĩa bánh hỏi thịt quay vừa thèm đĩa lòng lợn tiết canh. Kết quả là tôi chỉ ăn hết ½ dĩa mà trong lòng hết sức tò mò vì nguyên nhân của cái sự đông khách và nổi tiếng của mấy quán ăn này.
Ngay lúc đó, tôi nhận được điện thoại: một tiểu đội từ Sài Gòn vừa đến Phan Thiết và muốn gặp tôi ngay lập tức….
Sunday, January 8, 2006
60
Bắt đầu từ ước mơ được đến Hải đăng Kê Gà (thật ra nó tên là Khe Gà), một nơi mà tôi cứ nghĩ về nó uy dũng, vững vàng trước đầu sóng, ngọn gió như Trương Phi gác ngang thanh Bát xà mâu trên cầu Trường Bản, một nơi mà trong những khao khát của tuổi bé thơ tôi đinh ninh rằng nó xa xôi lắm và không biết đến khi nào tôi mới đặt chân đến được…
Bắt đầu từ một bài báo đọc vội, viết về một Hàm Thuận Nam đang bừng lên sức sống mới khi hàng loạt resort chen vai thích cánh mọc lên trên bờ biển, lấn dần những làng chài hiền lành nép mình sau hàng dương…
Và như thế kế hoạch đi xuyên Hàm Thuận Nam ra đời. Sau một số những trục trặc nho nhỏ, đúng 6h30 ngày cuối cùng của năm 05, cùng một người bạn và chiếc xe gắn máy, tôi lên đường….
LONG KHÁNH - THỊ TRẤN NGỦ TRONG SƯƠNG.
Có thể bạn sẽ không tin tôi. Nhưng thật đấy, Long Khánh đón chúng tôi bằng một con dốc lấp loá nắng và bảng lảng sương. Tiếc là với tốc độ chạy xe lúc ấy của mình, tôi chỉ kịp trầm trồ và chỉ cho thằng bạn xem cảnh ấy mà quên cả việc phải lưu lại một tấm ảnh (thật ra thì không chỉ lần này, suốt chuyến đi tôi còn rất nhiều lần phải tiếc nuối như thế). Xe qua dốc vào Long Khánh và từ cái bất ngờ ban đầu, chúng tôi thật sự lạ lẫm. Cả thị trấn cứ mờ mờ trong sương. Dĩ nhiên là không thể so sánh với Dalat hay Sapa nhưng giữa miền Đông Nam bộ vào một ngày cuối năm, được đi giữa làn sương ấy thật sự đã gây cho chúng tôi nhiều thích thú. Sương vấn vít trên những hàng cây hai bên đường,. Sương lãng đãng trong những khu vườn xinh xắn. Sương mờ mịt các rừng cao su. Cây cối trong sương cứ xanh um lên. Con đường quốc lộ xuyên qua thị trấn tự nhiên vắng lặng lạ kỳ. Hai đứa mải miết chạy xe chẳng nói với nhau lời nào. Cả thị trấn Long Khánh như vẫn còn đang ngủ…
Qua thị trấn được một lúc lâu, tôi mới dần tan cơn mộng mị. Hoà vào dòng xe cộ hối hả ngày cuối năm trên xa lộ, tôi biết rằng từ đây Long Khánh sẽ mãi là một thị trấn ngủ trong sương….
TAKOU–CÁP TREO VÀ TƯỢNG THÍCH CA NHẬP NIẾT BÀN LỚN NHẤT NƯỚC
Chúng tôi đến chân núi Takou khoảng 10h30’. Ngọn núi nhỏ hiện lên từ xa với hệ thống cáp treo vắt ngang làm chúng tôi thêm hăm hở tăng ga cho nhanh đến địa điểm chính thức đầu tiên của chuyến hành trình. Từ Quốc lộ rẽ vào con đường trải nhựa với những vườn thanh long Hoàng Hậu xanh mát hai bên khoảng 1km là đến chân núi cũng là cổng của Khu Du lịch Núi Takou.
Vì thời gian có hạn và cũng để dành sức cho chuyến đi, chúng tôi quyết định sử dụng cáp treo để lên núi và sẽ cuốc bộ xuống núi. Hệ thống cáp treo ở đây còn rất mới với nhà ga và các khu vực phụ cận được xây dựng hài hoà với cảnh quan thiên nhiên. Chỉ mất khoảng 10’ cáp treo, khách du lịch đã có thể lên đến lưng chừng núi sau khi chầm chậm lướt trên khu rừng nguyên sinh và đỉnh núi nhỏ. Từ đây phóng tầm mắt ra xa chúng tôi đã có thể thấy biển Hàm Thuận Nam xanh ngắt cùng ngọn hải đăng nổi tiếng. Rời khỏi cabin cáp treo ở nhà ga lưng chừng núi, leo khoảng hơn trăm mét theo lối mòn là đến được Linh Sơn Trường Thọ Tự. Đây là ngôi chùa cổ nhất của tỉnh Bình Thuận. Chùa Nuí xây dựng từ năm 1897 do nhà sư Trần Hữu Đức trụ trì. Nơi xây dựng chùa do nhà Sư chọn hiện ở đỉnh cao 457m nhưng trước đó nhiều năm đã có chùa thờ Phật bằng mái tranh vách đất. Năm 1872 nhà Sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Âm, pháp hiệu Hữu Đức từ miền trung một mình vượt nuí, xuyên rừng rậm, thú dữ, đường đi khó khăn hiểm trở lên đỉnh nuí Tà Cú tim nơi an tịnh để tu hành. Lúc còn sống, nhà sư còn là thầy thuốc giỏi, tương truyền “ vào năm Tự Đức thứ 33 Canh Thìn (1880) nhà sư đã cứu Hoàng Thái Hậu thoát khỏi bệnh hiểm nghèo bằng thuốc của mình. Vua Tự Đức đã ban sắc và đặt tên chùa là “ Linh Sơn Trường Thọ” và nhà sư Trần Hữu Đức là “Đại lão Hoà thượng” cũng từ đó chùa có tên Linh Sơn Trường Thọ.
Tiếp tục theo đường mòn lên núi là bắt gặp nhóm tượng Tam Thế Phật: A Di Đà, Quan Âm và Đại Thế Chí. Ba pho tượng có chiều cao 7m được xây dựng ở một khoảng đất rộng. Đây là nhóm tượng đã được xếp hạng di tích quốc gia. Cách nhóm tượng này khoảng 50m, theo các bậc tam cấp ngoằn nghèo giữa rừng già là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn. Theo thống kê mới nhất trên báo Thanh Niên đây chính là 1 trong 10 kỷ lục của Phật Giáo Việt Nam, là bức tượng Phật nằm lớn nhất của cả nước. Tượng dài 49m , cao 11m được xây trong vòng 3 năm từ 1963 đến 1966 theo thiết kế của KTS Trương Thành Ý. Theo lời đồn của dân địa phương thì cách tượng khoảng 100m có một hang sâu với các truyền thuyết mà ngay cả người gan dạ nhất cũng không dám xuống đó một mình. Tôi dĩ nhiên không phảI là người gan dạ nên đành đứng bên tượng Phật để mong Phật quang phổ chiếu phù hộ độ trì cho mình mà thôi…
Tới đây thì cái balô nặng gần 20kg của tôi bắt đầu chứng tỏ sự hiện diện của mình khiến tôi không thể nào tiếp tục kế hoạch cũ là cuốc bộ xuống núi mà đành phải ngậm ngùi móc túi ra mua vé cho lượt xuống (dĩ nhiên là mắc hơn một chuyến khứ hồi). Tuy vậy, nhờ thế mà tôi biết được rằng người ta đã xây KDL Takou theo hình một cây guitar và một cây đàn nhị nối nhau bằng một cây cầu ở giữa. Xe điện của KDL đưa khách từ cổng vào đến ga và ngược lại vì thế cũng chạy loanh quanh nhiếu hơn khiến khách du lịch không cảm thấy khó chịu vì mất tiền vô ích để đi một đoạn đường ngắn như thế. Cũng là ý tưởng kinh doanh hay!